Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh (1)

Việt Thường! 
Ông nói thật về "Cha Già" của chúng tôi đấy chứ?


Cái gì đã làm cho một giáo viên Xã Hội Chủ Nghĩa phải biến thành một "thằng phản động" thế này?
Tôi không tin là vì miếng cơm manh áo mà Việt Thường phản lại "lý tưởng" của mình.
Tôi không tin là vì bị ức hiếp quá đáng mà Việt Thường phải trả thù đến mức thế này.
Nhưng có cái gì đó đã xui khiến tôi tin rằng vì Việt Thường không đành nhắm mắt làm ngơ để người khác té vào cái hố ông đã từng té vào. Ông không đành lòng nhìn người khác bị bịt mắt muôn năm. Và ông dũng cảm chấp nhận những lời phỉ báng chê bai hay nguyền rủa của những người không hiểu ông hoặc bị đụng chạm bởi những bài viết của ông. Ông có vẻ là người lập dị với cách "phán tội" thẳng thừng và quá nghiêm khắc.
Tôi không chia sẻ những tình cảm cứng rắn (vũ phu chăng) của ông đối với lịch sử. Thế nên tôi đọc ông qua người khác. Và tôi cũng muốn chia sẻ điều mình thấy cho các bạn của tôi. Nhưng chỉ qua cách nhìn của một người khác, một tác giả nổi tiếng, qua một chương trong một cuốn sách cũng nổi tiếng ở hải ngoại. Biết thế thôi. Để các bạn tự do đọc và nhận định, nêu tên tác giả ra dễ làm các bạn mắc phải lỗi "chấp trước".
Năm 2002, nhà xuất bản Quật Khởi phát hành cuốn Sự tích con yêu râu xanh của Việt Thường, tiếp theo cuốn Chuyện thâm cung dưới triều đại Hồ Chí Minh do cơ sở Hưng Việt xuất bản trước đó hai năm. Cả hai cuốn đều được tác giả xác định nhắm “lột mặt nạ” yêu nước của Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam. Việt Thường là một trong 3 bút hiệu của Trần Hồng Văn nguyên là một nhà giáo.

Những năm trước 1976, khi viết cho tờ Độc Lập ở Hà Nội, Trần Hồng Văn lấy bút hiệu Trọng Kính. Sau khi bị bắt giam 10 năm với những màn tra tấn dã man ông bị liệt rồi được thả, hiện sống nhờ trợ cấp của chính phủ Anh ở Luân Đôn và thường viết cho các báo ở Hải Ngoại từ 1993 đến nay dưới bút hiệu Trần Thượng Dân.

Ngày 30-4-1975, khi đài phát thanh loan tin tướng Dương Văn Minh đầu hàng, Trần Hồng Văn đang có mặt tại công trường Đập Sông Đáy, miền Bắc, với tư cách nhà báo được giám đốc công ty Thủy Lợi số 3 mời cùng với Vũ Hạnh là phóng viên báo Nhân Dân của Cộng Sản Việt Nam.
Tác giả kể lại, khi tin "chiến thắng" loan ra, hàng vạn công nhân, sinh viên học sinh có mặt tại buổi mít-tinh chẳng những không hoan hô, reo mừng như thường lệ mà còn tỏ vẻ buồn nản.

"Chẳng một ai vỗ tay, kể cả thành viên "đoàn chủ tịch”. Quản ca của công trường bắt nhịp hát bài "Giải phóng miền Nam”, cũng chỉ có mình hắn hát. Tất cả tự động giải tán về lán. Khi đi qua lán, nghe nam nữ công nhân đang chua chát chửi:

– Đ. mẹ tụi miền Nam sướng quá hóa quẩn. Hàng triệu quân mà đánh đấm như vậy. Làm tướng và tổng thống gì mà hèn thế, không dám bắn một phát vào đầu tự tử cho con cháu sau này được hãnh diện mà đầu hàng một cách hèn hạ như vậy!

– Mình cứ tưởng miền Nam sẽ ra giải phóng cho kiếp trâu chó của chúng mình, nào ngờ, đù mẹ nó, thế là hết hy vọng! Để cho bọn chúng nếm mùi xã hội chủ nghĩa mới hết phản chiến với du ca. Đ… mẹ cái thằng Trịnh Công Sơn!”…

– Đ… mẹ nó lại làm bài ca ngợi đảng và bác, xin đầu quân "ông Lành” (tức Tố Hữu) thì có khi nó cho mày bú cà nó ấy chứ! (Có thể còn được nghe giai cấp công nhân "thổ lộ” nhiều bí mật nữa. Nhưng giám đốc công ty Thủy lợi số 3 "sợ” quá nên cứ thúc ra xe về Hànội)”

Với cương vị nhà báo của chế độ, lại có nghề tay trái là bói tử vi, tác giả đã có nhiều dịp đi đó đây và tiếp xúc với đủ mọi hạng người, từ các lãnh tụ đảng đến thường dân đủ mọi tầng lớp ngành nghề. Vì vậy, tác giả biết được nhiều chuyện đặc biệt và đã kể lại với nhiều chi tiết cụ thể về tên tuổi và tương quan họ hàng các nhân vật, nơi chốn ngày giờ xẩy ra sự việc ...

Mục đích chính của tập sách 350 trang này được nêu rõ là để phản bác luận điệu của Lữ Phương về huyền thoại Hồ Chí Minh. (1) Lữ Phương từng rời Sài Gòn năm 1968 theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nhưng sau 1975 có xu hướng chống đối chế độ Cộng Sản Việt Nam.

Tuy vậy, Lữ Phương vẫn ca ngợi Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, chiến đấu vì nền độc lập và thống nhất của tổ quốc. Theo Lữ Phương, Hồ Chí Minh không chịu trách nhiệm về những tội ác của Cộng đảng Việt Nam suốt nửa thế kỷ qua – do đó, nếu thúc đẩy được tập thể lãnh đạo Cộng đảng Việt Nam hiện nay quay về với tư tưởng Hồ Chí Minh thì sẽ cải thiện được chế độ, không cần lật đổ hay thay thế nó. Nói một cách khác, Lữ Phương có xu hướng chống chế độ nhưng muốn dựa vào thần tượng Hồ Chí Minh để duy trì và củng cố chế độ.
[Việt gian Hồ Chí Minh]



Việt Thường cho rằng Lữ Phương không hiểu gì về Hồ Chí Minh và đã hành động như một loại “ma giáo tinh vi” nhằm đầu độc giới trẻ Việt Nam. Chủ điểm của Việt Thường là phản bác luận điệu của Lữ Phương, nhưng khi phân tích các vấn đề, tác giả đã cung cấp nhiều sự việc cụ thể chứng minh con người thực của nhân vật Hồ Chí Minh.

Dựa trên những hiểu biết do sống ngay tại miền Bắc nhiều năm trước và sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Trần Hồng Văn quả quyết Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu gian hùng cùng cực, chuyên dùng lời đường mật và mưu mô xảo quyệt để hãm hại kẻ vô tội, một thứ sói đội lốt cừu, một thứ yêu râu xanh.

Việt Thường kết tội Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp như các tác giả Phạm Văn Sơn, Hoàng Văn Chí, Hoàng Hữu Quýnh, nhà báo Mỹ David Halsberstam ... đã ghi trong tác phẩm và là một nghi vấn của W. J. Duiker.

Căn cứ vào hồi ký của Hoàng Văn Hoan, tác giả còn quả quyết Hồ Chí Minh đã bán đứng nhiều đồng chí của lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học khiến cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại đưa đến cái chết của 13 liệt sĩ. (2) Tác giả cho biết Hồ Chí Minh cũng hãm hại chính các đồng chí của mình hồi cuối thập kỷ 20 qua tay gián điệp nhị trùng Lâm Đức Thụ. Tác giả trích dẫn một số đoạn báo cáo của Hà Huy Tập, nguyên Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông Dương, gửi Đệ Tam Quốc Tế đề cập đến sự việc này.

Bản báo cáo của Hà Huy Tập đề ngày 20-4-1935 có những đoạn: "Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau thường bàn về đồng chí Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn 100 hội viên đoàn thanh niên, bởi vì:

–a. Quốc biết rõ Lâm Đức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với hắn.

–b. Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp hai bức ảnh, ghi rõ tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên của từ 2 đến 10 người bạn.

–c. Ở trong nước, ở Xiêm (Thái Lan) và ở trong tù, người ta vẫn còn bàn tán đến trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.” (3)

Việt Thường bác bỏ luận điệu cho rằng Hồ Chí Minh bị nhóm Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lộng quyền chỉ còn hư vị nên không chịu trách nhiệm về nghị quyết 9 tháng 1-1959 theo lệnh Trung Cộng cho cán bộ xâm nhập miền Nam cũng như cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Thậm chí còn có dư luận nói ngay cả vụ Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu hồi 1955-56, Hồ Chí Minh cũng là nạn nhân vì bị các cố vấn Trung Cộng qua mặt v.v... Tác giả đưa ra những thí dụ cụ thể để chứng minh các dư luận kia hoàn toàn do bịa đặt vì cho đến lúc già yếu, Hồ Chí Minh vẫn là người nắm quyền lãnh đạo và thủ hạ luôn răm rắp tuân hành.

"Chỉ cần lấy một tin trên báo Nhân Dân có tường thuật vài tháng trước tết Mậu Thân (1968), Hồ đã sang sân bay Gia Lâm thăm lính Ngụy (4) trong đơn vị tên lửa và không quân để động viên… Tháp tùng Hồ có nhiều bộ mặt ác ôn, trong đó có Võ Nguyên Giáp và Tố Hữu. Chuyện kể lại dưới đây, không đăng trên báo nào cả, nhưng nó lại được kể ở hầu hết các tòa soạn báo, đài và cả ở quán cà phê, quán bia hơi ở Hànội. Đó là khi nghe tin Hồ đến thăm đơn vị, lính Ngụy trong binh chủng phòng không, không quân, vừa đi học ở Nga Xô về, ào ào chạy ra chẳng có hàng ngũ gì cả. Từ tư lệnh binh chủng cho đến tụi bảo vệ, cho đến Tố Hữu, Văn Tiến Dũng đều vây quanh Hồ để bảo vệ, trong khi Võ Nguyên Giáp cầm loa điện cầm tay gào lên: "Yêu cầu trật tự” , mà lính Ngụy cứ lờ đi. Hồ bèn giật lấy loa trên tay Giáp và hô: "Nghiêm”. Theo "phản xạ lính”, tất cả đứng nghiêm. Hồ lại hô:"Tất cả xếp hàng, 5 hàng dọc” ! Bọn lính vội xếp hàng. Hồ hô tiếp "Nghiêm”! rồi lại hô "Nghỉ ”; và cuối cùng hô: "Nghiêm! Đằng sau quay! Đều bước!” Bọn lính Ngụy răm rắp làm theo. Bấy giờ Hồ cười cười quay lại bảo Giáp: "Chú là đại tướng, vậy mà không biết điều khiển lính! ” (5)

Sau khi thuật chuyện đó, tác giả nêu câu hỏi: “Một tên gián điệp lão luyện, phản ứng rất nhanh như Hồ, ăn nói với phó thủ tướng, bộ trưởng, đại tướng như nói với thằng nhỏ, con sen như vậy, liệu có thể là kẻ để cho Lê Duẩn khống chế không?” Và tác giả nêu thêm một trường hợp khác cho thấy chỉ có Hồ Chí Minh đủ tỉnh táo giải quyết, mặc dù lúc ấy đã lâm trọng bệnh chỉ sống được vài tháng nữa: “Ngày 1-5-1969 học sinh trung học người Hoa ở Hà Nội được nhân viên sứ quán Trung Cộng cho tổ chức mít-tinh kỷ niệm Quốc Tế Lao Động, nhưng ngầm chỉ thị lợi dụng đi phá sứ quán Nga Xô. Cả lũ Trần Quốc Hoàn, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng tái mặt không biết giải quyết ra sao. Vì giải tán biểu tình thì khổ với Trung Cộng, còn để sứ quán Nga bị phá thì mang tội không bảo vệ được thành trì của Cách Mạng. Cuối cùng phải vào xin ý kiến Hồ. Khi Hồ được bọn Lê Duẩn báo cáo thì đoàn biểu tình đã qua hàng Bông, gần tới Cửa Nam, tức là đi bộ chừng 20 phút là tới sứ quán Nga-Xô. Con cáo già gần kề miệng lỗ vẫn còn ma mãnh hơn bọn đệ tử. Vừa nghe báo cáo dứt lời, Hồ ra lệnh "kéo còi báo động như có máy bay Mỹ vậy, đuổi hết bọn biểu tình xuống hầm cho đến khi nào bọn biểu tình mệt mỏi tự tan hàng ngũ, đuổi chúng quay về Hội Hoa Liên hãy kéo còi báo yên.” Ngày 1-5-1969 là ngày đầu tiên Hànội "báo động máy bay Mỹ” liên tục gần 6 tiếng đồng hồ liền. Với lý do thi hành lệnh phòng không bảo vệ tính mạng cho người đi đường, công an bỏ áo màu vàng, mặc thường phục, đóng vai thanh niên cờ đỏ cùng với thanh niên cờ đỏ thứ thiệt và tự vệ đường phố, đã nhã nhặn hướng dẫn đoàn biểu tình vào hết các hầm trú ẩn …”(6)

Tác giả nhắc với Lữ Phương rằng hãy hỏi dân và cán bộ, kể cả Vũ Kỳ thì ắt rõ. Việt Thường nhiều lần nhắc lại rằng khi chống đối chế độ mà không dám đánh thẳng vào Hồ Chí Minh để chỉ đánh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ hay Nông Đức Mạnh thì chẳng khác gì chỉ lo tỉa cành tỉa lá mà để sót cái gốc. Tác giả viết:

"Bỏ quên Hồ (chứ chưa nói đến đề cao Hồ) mà chỉ tấn công Lê Duẩn hoặc Mười, Phiêu, Mạnh, thì chẳng khác gì giặc Minh xưa kia giết Lê Lai để thoát Lê Lợi vậy”. (7)

Về mặt đạo đức của Hồ Chí Minh, tác giả nêu tên những phụ nữ bị Hồ sử dụng như đồ chơi rồi bỏ hoặc để cho đàn em thủ tiêu mà nhiều sách báo hải ngoại đã nói đến, kể cả cuốn Đêm Giữa Ban Ngày của nhà văn phản tỉnh Vũ Thư Hiên, người suốt thiếu thời từng được kề cận và vẫn coi Hồ như bậc cha bác trong gia đình. Việt Thường còn lưu ý độc giả đặc biệt về trường hợp Nguyễn Thị Minh Khai nguyên là vị hôn thê của Lê Hồng Phong bị Hồ Chí Minh làm cho mang bầu khiến đàn anh Liên Xô phải giải quyết bằng cách ép Lê Hồng Phong nhường cô vợ chưa cưới cho Hồ. Vì vậy, theo tác giả, Hồ đã có giá thú chính thức với Nguyễn Thị Minh Khai và tờ giá thú này đã được tìm thấy giữa đống tài liệu mật được bật mí sau khi Liên Xô sụp đổ. Tác giả nhấn mạnh về hành vi che đậy kéo dài suốt mấy chục năm của Hồ Chí Minh và thủ hạ bằng cách vẫn bảo cô con gái mà Minh Khai có với Hồ Chí Minh là con của Lê Hồng Phong! Tác giả thách Lữ Phương cho thử DNA cho vỡ lẽ về Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tất Trung (hiện làm con nuôi của Vũ Kỳ là thư ký của Hồ Chí Minh) và cô con gái của Nguyễn Thị Minh Khai.

Theo tác giả, cũng do mối tình tay ba Minh-Phong-Khai này mà về sau Lê Hồng Phong bị bắt và chết trong tù. Vì khi Lê Hồng Phong từ Liên Xô bí mật ghé gặp Hồ Chí Minh ở Thượng Hải trên đường về nước nhận chức Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông Dương do Liên Xô cử thì chỉ có hai người biết việc này và biết rõ đường đi nước bước của Lê Hồng Phong. Vậy mà Lê Hồng Phong vừa đặt chân tới Chợ Lớn đã lập tức bị mật thám Pháp đón bắt.

Tác giả còn nói việc Phùng Chí Kiên bị giết cũng do Hồ Chí Minh thực hiện qua Võ Nguyên Giáp. Vì Phùng Chí Kiên vừa biết quá nhiều về dĩ vãng của Hồ Chí Minh vừa được Liên Xô tín nhiệm nên được giao nắm lực lượng vũ trang trên cả Võ Nguyên Giáp. Sự có mặt của Phùng Chí Kiên sẽ khiến Hồ Chí Minh khó nắm trọn quyền lực.

Tác giả dành khá nhiều trang trình bày về đường đi nước bước của Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn trong việc chiếm đoạt và củng cố uy quyền với nhiều sự việc lớn nhỏ vô cùng đa dạng. Khi nói về tính công cụ của Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam, tác giả đã đưa ra những chuyện quanh đời sống cá nhân của một số nhân vật. Tác giả kể Xuân Thủy với tư cách một cấp lãnh đạo đã biến đổi ra dáng một bá tước của triều đại Hồ Chí Minh trong khi bà vợ già lại quê mùa chất phác. Để đỡ cô đơn trong thời gian cầm đầu phái đoàn ở hội đàm Paris, Xuân Thủy đã đề nghị và được Hồ Chí Minh thông cảm, đồng ý cho Nguyễn Thị Bình vốn thuộc bộ ngoại giao Bắc Việt sang Paris "mật đàm” trở thành trưởng phái đoàn của cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Rồi cũng chính Xuân Thủy đưa Hoàng Phong từ báo Cứu Quốc ở phố Bà Triệu, Hà Nội sang làm nhân viên của phái đoàn miền Nam do Nguyễn Thị Bình cầm đầu. Thành phần nhân sự này của phái đoàn Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam cho thấy cung cách nắm vững quyền lực của Hồ Chí Minh và cũng gây ngạc nhiên không ít về những dư luận báo chí quốc tế tin rằng phái đoàn này không bị cộng sản Bắc Việt chi phối!

Theo tác giả, Hồ Chí Minh cũng như Mao Trạch Đông chủ trương quyền lực phát xuất từ họng súng. Cho nên ngay những năm đầu mới làm chủ tịch nước, đã tìm cách gạt các phần tử quốc gia khỏi địa vị lãnh đạo trong bộ quốc phòng và lực lượng vũ trang để thay bằng những đảng viên cốt cán, tay chân đắc lực của mình.

Dựa vào những biên bản của chính phủ liên hiệp thời đó còn tồn trữ tại viện bảo tàng Hồ Chí Minh, Việt Thường kể lại nhiều việc chẳng hạn như Hồ Chí Minh dưới danh nghĩa chính phủ liên hiệp đa đảng mở các lớp quân sự cấp tốc cho thanh niên, học sinh, sinh viên, đặt tên Trường Trần Quốc Tuấn, giao cho Võ Nguyên Giáp phụ trách. Ngày 7-1-1946, Hồ Chí Minh đề nghị hợp nhất lực lượng quân sự, cử Vũ Hồng Khanh (VN Quốc Dân Đảng) làm bộ trưởng quốc phòng, sau đó lột chức một cách khéo bằng đề nghị Vũ Hồng Khanh tham gia phái đoàn ký Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-46. Bước kế tiếp, Hồ Chí Minh đưa luật sư Phan Anh (trong chính phủ Trần Trọng Kim trước) thay Vũ Hồng Khanh giữ bộ Quốc Phòng và khi có hội nghị Fontainebleau thì tiến thêm bước chót là đề cử Phan Anh tham gia phái đoàn đi Pháp, trao chức bộ trưởng quốc phòng cho Võ Nguyên Giáp. Khi đó Hồ Chí Minh mới yên tâm đi dự hội nghị ở Pháp vì ở nhà Võ Nguyên Giáp đã có đủ điều kiện là nắm trọn các lực lượng vũ trang trong tay để tiêu diệt đối lập thuộc các đảng Đại Việt, Việt Quốc, Việt Cách…Việc dựng lên vai trò chính uỷ hay chính trị viên trong quân đội do đảng Cộng Sản nắm giữ cũng nhắm biến toàn thể lực lượng vũ trang thành công cụ trong tay.

Lực lượng công an thuộc bộ nội vụ cũng được củng cố theo chiều hướng này. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ yêu nước nổi tiếng, được mời giữ chức bộ trưởng nhưng chỉ là hư vị, vì thực quyền nằm trong tay Hoàng Hữu Nam, thứ trưởng. Khi Nam chết thì bộ ba Trần Hiệu, Lê Giản, Chu Định Xướng là những người thân tín của Võ Nguyên Giáp thao túng bộ này và dựng nên vụ án Ôn Như Hầu để bôi nhọ và triệt hạ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng Hồ Chí Minh chỉ thực sự yên tâm khi đẩy được cựu hoàng Bảo Đại khỏi Việt Nam bằng việc cử cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh công tác không có ngày về.

Việc Cải Cách Ruộng Đất giữa thập niên 1950, theo Việt Thường, cũng nhắm mục đích chủ yếu là củng cố quyền lực. Việt Thường nhận định: "Hồ dùng Cải Cách Ruộng Đất để đảo chánh âm thầm chính phủ liên hiệp đa đảng, dựng lên ngụy quyền Hồ Chí Minh, lèo lái cuộc kháng chiến chống thực dân của nhân dân thành cuộc chiến bành trướng của thực dân đỏ.” (8)

Tác giả cho rằng chính quyền xã lúc ấy là tế bào của chính phủ liên hiệp đã bị nhóm cầm đầu Cải Cách Ruộng Đất gạt hẳn ra ngoài lề. Nguyên tắc chính lúc đó là dựa vào rễ, nghĩa là những phần tử cặn bã ở nông thôn, thành phần lưu manh, sẵn sàng giết người thân vì miếng cơm manh áo. Bọn này là nguyên cáo, là quan tòa trong cái gọi là tòa án nhân dân để xử những nông dân có máu mặt hoặc những phần tử chúng không ưa dù đó là đảng viên Cộng Sản hay ai khác, khiến cho nhiều người có công kháng chiến chống thực dân bị xử oan. Phần tử rễ này làm nên quyền lực của chính quyền mới sau Cải Cách Ruộng Đất …Về cái rễ này, tác giả kể một chuyện về việc nông dân gia nhập đảng cộng sản, chuyện thực mà như đùa nhưng chứa đựng một ý nghĩa đáng kể: "Nhiều đảng viên nông dân kiểu ấy đã thề, trước bàn thờ có lá cờ đỏ búa liềm vàng (tức quốc kỳ Nga xô), được gọi là đảng kỳ của mafia đỏ; có ảnh Mác, Ăng-Ghen, Lênin, Stalin, rằng: "Thưa hai ông tây rậm râu (tức Mác và Ăng-Ghen); một ông sâu mắt (tức Lênin); một ông râu chổi ở mép (tức Stalin), tôi xin thề...

Việc tưởng như đùa mà là thực trăm phần trăm, có cả ngàn người biết, kể cả Hồ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt. Chỉ có điều là khi nghe báo cáo về những chuyện như thế, bọn chúng còn cảm động nói rằng đảng viên kiểu ấy là chân thành từ tim ruột.”

Tóm lại, với tác giả Việt Thường, Hồ Chí Minh là con mãng xà tinh trong truyện Thạch Sanh (9), là con yêu râu xanh, theo nhan đề cuốn sách, vì đã bán các nhà yêu nước, bán cả đồng chí của mình để thực hiện mưu đồ chiếm đoạt quyền bính. Ngoài những trọng tội đó, Hồ Chí Minh còn là kẻ tàn nhẫn, lợi dụng hàng nửa tá phụ nữ rồi vứt bỏ, thậm chí làm ngơ cho đàn em thủ tiêu. Bên cạnh những điều này, Hồ Chí Minh đã lạnh lùng đẩy hàng triệu binh lính và thường dân vào vòng bị bắn giết để thực hiện chủ trương xâm lăng miền Nam.

Vì thế, Việt Thường đã kết án những người bênh vực Hồ Chí Minh như Lữ Phương là ngu dốt, "nịnh bợ hòng xin chút cơm thừa canh cặn”của chế độ hiện nay. Việt Thường đã trưng dẫn nhiều tài liệu, văn bản có giá trị thuyết phục nhưng cho biết không chủ trương viết một tác phẩm biên khảo mà chỉ muốn kể lại những sự việc do chính bản thân và những người xung quanh biết đích xác về con người Hồ Chí Minh.

Người đọc đặt nặng đòi hỏi sự phát biểu nghiêm túc có thể viện dẫn giọng văn hằn học để đánh giá thấp cuốn sách coi như chỉ phản ảnh thái độ thù hận nên khó thể hoàn toàn xác thực.

Dù vậy vẫn không thể phủ nhận cuốn sách đã được viết bởi một nhân chứng có giá trị vì từng trải nhiều cảnh sống thực tiễn trong xã hội Cộng Sản Việt Nam và đã được viết bởi một nhà báo lão luyện đặt ra rất nhiều vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến vận mệnh chung của đất nước và dân tộc.

Thêm nữa, theo thiển kiến, nếu thực sự tôn trọng ý kiến của mọi người thì không thể không lắng nghe tiếng nói của các chứng nhân, nhất là nạn nhân, dù lời lẽ phát biểu có thể khiếm nhã do không đè nén nổi mức phẫn nộ hay những thúc đẩy cùng cực của sự đau đớn uất ức.

Một cách nào đó, chính những lời lẽ này cũng là một thực tế phản ảnh sống động chân tướng của sự thực.

_______________________________

CHÚ THÍCH
(01) Trong Tâm Sự Nước Non, Chương 11, chúng tôi đã nói về bài viết của Lữ Phương.
(02) Xin đọc chương về Hoàng Văn Hoan.
(03) SĐD tr. 271
(04) Tác giả luôn dùng 2 chữ lính Ngụy để chỉ quân đội Cộng Sản Việt Nam. Xin đừng lầm với từ Ngụy mà Cộng Sản Việt Nam dùng để nói về quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
(05)-(06)-(07) SĐD tr. 227, 241-242, 283
(08) SĐD tr. 81. “Chính phủ liên hiệp” mà tác giả nói ở đây không phải là chính phủ liên hiệp đầu tiên trong đó có các đảng Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, và một số nhân sĩ trí thức... Tác giả dùng từ “liên hiệp” có lẽ vì lúc ấy còn có hai đảng bù nhìn Dân Chủ và Xã Hội của các ông Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển hoặc cũng có thể muốn ám chỉ tính chất chưa thực sự hoàn toàn Cộng Sản vì nhiều thành viên trong chính quyền lúc đó còn nghiêng về tinh thần dân tộc yêu nước.
(09) SĐD tr. 82
Tác giả Việt Thường đã được sinh ra và lớn lên tại miền Bắc Việt Nam và đang tỵ nạn tại Anh quốc.

Quyển ‘’Sự tích: Con yêu râu xanh ở Việt Nam’’ đã được dịch ra Anh ngữ do Vietbooks ấn hành dưới tựa đề: ‘’Vietnamese Communists Ho chi Minh and Disciples Real person, true facts’’.


Bài 01
 Hồ Chí Minh-Con yêu râu xanh

Tác giả: Việt Thường
Chủ quan và khách quan
Tôi tự nhận cũng như luôn luôn giữ quan điểm khi xem xét hoặc phân tích các hiện tượng xã hội ở Việt Nam, đã và đang dưới sự thống trị của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản, bằng lăng kính chủ quan. Nghĩa là, bằng mắt tôi thấy; bằng tai tôi nghe; bằng óc tôi nhận xét và phân tích; bằng khả năng ngôn ngữ của tôi để diễn đạt. Đặc biệt, khi nghe ai nói, tôi cũng hỏi cặn kẽ để biết nguồn tài liệu có đáng tin không; bao nhiêu là thực, bao nhiêu là giả.
“Tại sao không khách quan?” Xin thưa rằng: Tình hình xã hội Việt Nam từ ngày tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam, mà khởi đầu là Hồ chí Minh, đặt ách thống trị thì chỉ có hai cách nhìn. Một là của đại đa số nhân dân Việt Nam bị tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam đặt ách thống trị; và cách nhìn thứ hai là của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản Việt Nam, do chính chúng diễn đạt hoặc chỉ đạo cho tay sai diễn đạt. Không thể nào có cách thứ ba, hay gọi là khách quan. Bởi vì thực tế lịch sử đã cho thấy: Tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản trong mọi việc đều suy nghĩ và hành động theo chủ quan của chúng. Còn người dân bị trị, giác ngộ thân phận của mình cũng suy nghĩ và hành động theo chủ quan của mình. Một bộ phận nào đó trong nhân dân (tỷ lệ nghịch với thời gian), thoạt đầu có thể chiếm khá đông, do nhiều nguyên nhân như bị tuyên truyền bịp bợm của cộng sản, do thiếu thông tin v.v… nên mơ hồ quyền lợi và thân phận. Cách nhìn của bộ phận đó được gọi là khách quan, nhưng thực ra nó ngả về phía của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản và nó thường được sự đồng tình của tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản giống cái gọi là thành phần thứ ba (3) ở miền Nam trước tháng 4-75 vậy. Một thí dụ của cách nhìn đó là việc nhận định: “Hồ chí Minh có công đánh thực dân, đế quốc, tuy nhiên cũng có tội du nhập chủ nghĩa cộng sản”. Nói vậy là mơ hoà, là ngụy biện. Không thể tách công và tội ra được, vì đây là hai mặt của một vấn đề. Phải tự hỏi: “Tại sao phải đánh thực dân đế quốc?” Trả lời: “Là để khỏi bị áp bức, bóc lột, được tự do, hạnh phúc.” Cho nên nếu đánh thực dân, đế quốc mà còn bị áp bức, bóc lột, mất tự do và bất hạnh hơn, thì đánh làm gì! Đi buôn mà lỗ thì chỉ có tội, làm gì có công!!! (Chẳng lẽ ghi công làm sổ sách cần mẫn, họp hành tiệc tùng không mệt mỏi hay sao?!) Chính Hồ chí Minh rất ma giáo nên cũng nêu lên những ý thật là chí tình để dụ khị mọi người và che bộ mặt thật là “lưu manh chính trị” của hắn. Hồ đã nói rằng độc lập mà không có tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì. Như vậy, nếu theo Lữ Phương, rằng Hồ đã có công “… tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất (sic); ta cứ tạm coi như là thực sự có độc lập, thống nhất đi. Nhưng tự do rõ rệt vẫn chỉ là cái bánh vẽ vĩ đại biểu hiện rõ nhất trong điều 4 hiến pháp và nghị định 31/CP của chúng, thì, như cách Hồ lý luận: “cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Làm một công việc “chẳng có ý nghĩa gì” mà lại coi là “có công” thì đúng chỉ có cái đầu kiểu Lữ Phương mới “khách quan” kết luận như vậy – Kiểu viết lách như thế là kiểu viết loạn cào cào nhằm lách cái chất nịnh hót, bợ đỡ mà thôi.
*****
Vài nét về con người Hồ chí Minh của Lữ Phương
Trong đề cương “Huyền thoại Hồ chí Minh” Lữ Phương vội khẳng định rằng: “Một cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thực về nhân vật lịch sử này” (tức nhân vật Hồ chí Minh).
Như lời giới thiệu, của “Nhóm Nối Kết”, thì bài này của Lữ Phương được: “gửi đến các bạn, đặc biệt các bạn trẻ. Cho nên Lữ Phương khôn ngoan dùng cụm từ “nhìn công bằng” để nhử những người trẻ tuổi là tầng lớp chưa va vấp với đời, thích công bằng (nhất là tuổi trẻ ở hải ngoại có ưu điểm chấp nhận tự do tư tưởng, ghét sự áp đặt hoặc độc quyền chân lý).
Vậy cái công bằng của họ Lữ về Hồ chí Minh là gì? Họ Lữ viết: “Hồ chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam!”
Họ Lữ mô tả về Hồ: “Cái cốt cách thanh thoát mờ ảo ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người của ông: với khuôn mặt xương xương, dáng người gầy, mới 50 tuổi đã để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất nhiều so với một số lãnh tụ công sản châu á khác như Mao trạch Đông chẳng hạn. Hình ảnh xuất hiện chính thức của ông trước công chúng do vậy ngoài một lãnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một hiền triết phương Đông”.
Họ Lữ tiếp tục nâng bi họ Hồ: “Từ một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông tiên trong các truyện thiếu nhi, một nguồn cảm hứng vô tận để hình thành những bài tụng ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta đã dựng bàn thờ của ông ngay giữa bùng binh Sài-gòn, khói hương nghi ngút. Ngày nay nhiều nơi vẫn giữ thói quen này, không phải chỉ riêng ông (nhiều liệt sĩ cộng sản đã thành thần trong các miếu, các đền).”
Tiếp theo đó, họ Lữ bó buộc phải điểm lại một số bê bối, nhăng nhít của họ Hồ (cho ra vẻ công bằngkhách quan). Sợ tập đoàn đầu lãnh mafia cộng sản hiểu lầm là Lữ phạm thượng, nên họ Lữ vội viết tiếp rằng: “Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục” (nghĩa là họ Lữ cho rằng họ Hồ bị bôi nghọ nên hắn không tin). Rồi để khẳng định với quan thầy mafia cộng sản cái tinh thần nâng bi, họ Lữ viết toạc móng heo quan điểm của hắn về hành động điếm đàng, bê bối của họ Hồ, rằng: “Nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan trọng lắm”. Đây cũng là ý đồ của họ Lữ muốn gửi lên quan thầy mafia cộng sản đương quyền của hắn, rằng Hồ có đụ bậy, giết người diệt khẩu v.v… cũng chẳng sao về mặt đạo đức, thì đương nhiên loại đụ bậy, tham nhũng, sát nhân Đỗ Mười, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu, Võ văn Kiệt, Đào duy Quát (con của Đào duy Tùng), Nguyễn khoa Điềm, Phạm thế Duyệt… qua lăng kính của Lữ, chúng vẫn đạo đức sáng ngời.
Tôi chưa từng biết Lữ Phương, nhưng các cụ nhà ta dạy rằng “văn là người”, nên có thể nói rằng: Lữ Phương là tên điếm chữ nghĩa có hạng đấy. Này nhé, nhận xét về việc thờ cúng họ Hồ và những tên mafia cộng sản khác, về thời điểm thì nói là sau 1975, nghĩa là sau cái ngày đệ tử của Hồ, đã xâm lăng miền Nam và đặt xong ách thống trị, đẩy nhiều triệu người phải bỏ nước ra đi, đưa hàng triệu người đi tù không xét xử, giết hại và cướp bóc tài sản của nhân dân, dân phải đi làm sưu dịch còn nặng hơn bọn Tô Định thời Bắc thuộc, thế mà Hồ vẫn được người ta thờ phụng. Họ lữ mập mờ không nói rõ cho “các bạn trẻ” biết rằng việc dựng bàn thờ họ Hồ có từ thời Hồ còn sống. Hắn và cái tổ chức mafia của hắn đã đẻ ra cái trò này chứ không phải là nhân dân tự nguyện (tức người ta) như họ Lữ sử dụng cụm từ “người ta” (tức nhân dân). Miền Bắc trước đấy và miền Nam sau này, hẳn ai ai cũng nhớ là công an hộ khẩu kiểm tra từng gia đình, nhà nhà phải có ảnh họ Hồ và thờ hắn, nếu không sẽ bị công an ghi sổ đen là “phản động”. Đểu giả hơn nữa, họ Lữ còn dám viết rằng ngày nay (tức là thế kỷ 21), nhiều nơi vẫn giữ thói quen này, nghĩa là theo cách “nhìn công bằng và khách quan” của họ Lữ thì: Người dân miền Nam, sau 1975, đã tự nguyện dựng bàn thờ để thờ Hồ. Sự tự nguyện đó đã trở thành thói quen (nghĩa là tập quán, là đời sống văn hóa, tâm linh của nhân dân) cho đến ngày nay, chứ không phải do chủ trương của tập đoàn mafia cộng sản áp đặt. Nâng bi họ Hồ chưa đủ, Lữ Phương lại còn khéo léo nhắn nhủ với tập đoàn mafia cộng sản về tinh thần khuyển mã của hắn khi viết rằng: “nhiều liệt sỹ cộng sản đã thành thần trong các miếu, các đền”. Những tên mafia cộng sản bị nhân dân Việt Nam giết trong cuộc xâm lăng, ăn cướp làm sao có thể gọi là liệt sỹ được?! Làm sao những tên cướp ngày đó lại có thể ngang hàng với các liệt sỹ dân tộc như Nguyễn Thái Học, Ký Con, Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Nguyễn Khoa Nam v.v… Làm ảo thuật về ngôn ngữ như thế sợ quan thầy còn mơ hồ nên dưới đó Lữ Phương phải lật bài tẩy khi viết: “Tính chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền”. Nghĩa là họ Lữ nịnh các đệ tử của Hồ trong ngụy quyền Hà-nội cộng sản đi theo con đường của ông (tức Hồ). Những tên xâm lược, giết hại dân lành (như vụ Tết Mậu Thân ở Huế chẳng hạn) được Lữ Phương nâng lên là “trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn”. Còn những quân nhân miền Nam chiến đấu để bảo vệ mảnh đất và lối sinh hoạt của miền Nam – là vùng lãnh thổ mà chính tập đoàn Hồ chí Minh đã hai lần ký kết cam đoan với quốc tế về sự phân chia đó thì bị tập đoàn mafia cộng sản và Lữ Phương gọi là ngụy, là phản động!!!
Lữ Phương khẳng định rằng những chuyện tình bẩn thỉu của họ Hồ là: “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục.”
Xin tạm nêu ra hai vấn đề để xem Lữ Phương có dám chơi bạo hòng biết hư thực ra sao. Đó là:
1) Có thể thử nghiệm DNA của Nông đức Mạnh, Nguyễn tất Trung (con của Hồ với cô Nông thị Xuân, nay Vũ Kỳ nuôi) và cô con gái của Nguyễn thị Minh Khai với DNA của Hồ để thấy kết quả khoa học ra sao, đã đủ thuyết phục chưa?
2) Họ Lữ táo tợn làm đề cương viết về Hồ chí Minh mà chỉ cần nêu ra hai dẫn chứng để thấy họ Lữ nông cạn thông tin về họ Hồ và tập đoàn của hắn đến mức nào. Trong hồ sơ lưu trữ của ban chấp hành đảng cộng sản Nga-xô, có lưu giấy hôn thú giữa Hồ và Nguyễn thị Minh Khai. Nhưng, tập đoàn mafia cộng sản cũng như họ Hồ đều duy trì trong dư luận nhân dân bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi, rằng Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Lê hồng Phong, đến mức khoảng năm 1990, tờ Sàigòn Giải Phóng còn đăng bài kêu gọi đoàn thanh niên cộng sản và giới chức cai trị cái đất Sài-gòn hãy giúp đỡ cô con gái của Nguyễn thị Minh Khai và Lê hông Phong (thực ra là của Khai và họ Hồ).
Tại sao Hồ và tập đoàn tay sai cố tình tạo ra sự ngộ nhận đó? Xin thưa rằng, sự thực của vấn đề đó như sau: Trước khi rời Việt Nam qua Nga-xô thì Nguyễn thị Minh Khai là hôn thê của Lê hồng Phong. Việc này đương sự có báo với trung ương cộng sản lúc đó. Thế rồi khi cả hai được triệu tập qua Nga-xô để học thì Lê hồng Phong đi trước, còn Minh Khai qua ngã Hồng-kông để được Hồ (dưới bí danh Lý Thụy) dạy vỡ lòng tiếng Nga và chính trị sơ đẳng để dễ dàng khi nhập học trường Đại học Phương Đông (Nga). Chẳng biết Hồ dạy Minh Khai học ra sao mà chữ chẳng vào “đầu” mà vào “đầy bụng”. Câu chuyện đổ bể khi Minh Khai tới Nga-xô nên Lê hồng Phong đành nuốt hận nghe lời lãnh đạo Nga-xô, nhường hôn thê cho Hồ và có giấy giá thú làm bằng để sau này Lê hồng Phong khỏi lôi thôi. Vì sự thiệt thòi đó và thái độ vâng lời cấp trên nên Lê hồng Phong được cho làm ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3. Đó là nhân vật cộng sản Việt Nam duy nhất được giữ vị trí gọi là “lãnh đạo của cộng sản quốc tế”. Còn Hồ, thực ra chưa bao giờ là thành viên trung ương của cộng sản quốc tế. Hắn chỉ công tác ở Cục Phương Đông, là một bộ phận của quốc tế 3 mà thôi, giữ nhiệm vụ liên lạc giữa đảng cộng sản Đông-dương với quốc tế 3. Những lá thư của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 tố cáo hành vi cáo đội lốt hùm còn đó, ai cũng tham khảo được, chẳng biết họ Lữ đã cẩn trọng đọc qua chưa, trước khi múa bút, lè lưỡi bốc thơm họ Hồ. Câu chuyện tình bi ai giữa Hồ, Lê hồng Phong và Minh Khai được giữ bí mật ngay cả đối với các thành viên cộng sản Đông-dương. Bởi vì như trước đó ai ai cũng biết Minh Khai là hôn thê của Lê hồng Phong. Hồ là một tên gián điệp có năng lực của Nga-xô trong vùng Đông-nam-á; Minh Khai và Lê hồng Phong đang được đào tạo để thành “lãnh tụ” của cộng sản Đông-dương, tức đạo quân thứ 5 của Nga-xô tại Đông-dương. Nếu để lộ việc Minh Khai chửa hoang, Lê hồng Phong bị cắm sừng và họ Hồ là kẻ chuyên đụ bậy, kể cả vợ của đồng chí mình thì hậu quả sẽ như thế nào. Các cụ nhà ta xưa có dạy: Làm đĩ chín phương cũng phải để một phương lấy chồng”. Còn họ Hồ, kẻ được Lữ Phương tô vẽ nào là “anh hùng giải phóng dân tộc”, “lãnh tụ cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; nào là “ông tiên”; nào là “nguồn cảm hứng vô tận” v.v… đã quên lời các cụ dạy để cho con “lợn nọc” trong lòng dẫn dắt đến mức “đụ bậy cả mười phương”, già chẳng tha (như Trương thị Mỹ, Đinh thị Cẩn), trẻ chẳng thương (như cô bé 17 tuổi đưa cơm ở Pắc-bó); cô Nông thị Xuân mẹ của Nguyễn tất Trung, và ngay cả Nguyễn thị Minh Khai cũng bị họ Hồ phá trinh lúc mới có 21 tuổi, và v.v…)
Cuộc tình tay ba đó đã khiến Lê hồng Phong ngã ngựa. Chẳng là, sau khi được là ủy viên dự khuyết trung ương của quốc tế 3, Lê hồng Phong được Nga-xô chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương (nghĩa là chẳng có bầu bán gì). Khi ấy Hồ là phái viên của cục Phương Đông, nên trước khi đáp tàu thủy về Chợ-lớn (Sài-gòn) giả dạng trong vai thương gia người Tàu, Lê hồng Phong phải ghé qua Thượng-hải (Tàu) để nghe Hồ báo cáo tình hình ở Đông-dương lúc đó, cách thức đi cũng như mật khẩu bắt liên lạc với trung ương cộng sản Đông-dương. Chuyện đó chỉ có Lê hồng Phong và Hồ biết với nhau, vậy mà Lê hồng Phong vừa bước chân tới Chợ-lớn đã bị mật thám Pháp thực dân bắt. Nhớ lại vụ Hồ bán cũ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp thì tình huống vụ Lê hồng Phong cũng như vậy. Nghĩa là Hồ tìm mọi cách mượn tay thực dân Pháp hãm hại tất cả những ai là đối thủ quyền lực hơn Hồ, trong con mắt của quốc tế 3. Đối với Lê hồng Phong, Hồ còn sợ với chức vụ ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3, kiêm nhiệm tổng bí thư đảng cộng sản Đông-dương, Lê hồng Phong với cái hận Hồ cắm cho cặp sừng dê trong vụ Minh Khai, thế nào cũng chờ dịp “thiến sống” họ Hồ, vì vậy Hồ ra tay trước. Và, vì toàn đảng cộng sản Đông-dương đều biết Minh Khai là hôn thê của Phong, cho nên khi cả Minh Khai và Phong bị thực dân Pháp tử hình thì Hồ cứ duy trì cái chuyện Khai là hôn thê với Phong và có con gái với Phong. Nhờ có tờ hôn thú giữa Hồ và Minh Khai tìm được trong kho lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô sau khi chế độ Xô-viết ở Nga sụp đổ, mà Hồ bị lật mặt nạ. Chỉ có Lữ Phương, nguyên thứ trưởng văn hóa bù nhìn do ngụy quyền mafia cộng sản nặn ra, một “trí thức yêu nước” trốn ra bưng với mafia cộng sản, cũng như các loại trí thức, theo định nghĩa và so sánh của Mao trạch Đông, là vẫn thấy Hồ là “ông tiên”, là “hiền triết phương đông” mà thôi. Chẳng biết Lữ Phương có được xem tấm hình “ông tiên” của Lữ Phương, trước ngày xuống địa ngục, đã bị KGB chụp được, đang đi dạo trong phủ toàn quyền cũ với cô con gái Tây lai của Hồ, tên Louis Daguière không, từ Pháp sang kia đấy, trong lúc cô con của Hồ với Nguyễn thị Minh Khai vẫn phải đơn côi ở Hải-phòng?(!)
Dẫn chứng thứ hai là Lữ Phương tự “tấn phong” cho bác sỹ Trần duy Hưng là “bí thư thành ủy Hà-nội”. Viết về Hồ mà còn lẫn lộn về những nhân vật xung quanh Hồ thì quả là đại liều mạng như Chí Phèo vậy. Trần duy Hưng là chủ tịch Hà-nội kiêm thường vụ thành ủy Hà-nội. Nhưng cả hai chức vụ đều là “làm kiểng” cho thủ đoạn chính trị của ngụy quyền Hồ chí Minh, nghĩa là mượn cái danh “bác sỹ” của Hưng để cân đối với bác sỹ Trần văn Lai, thứ trưởng Hà-nội thời cụ Trần Trọng Kim. Gần như công việc chính yếu của Trần duy Hưng – với tư cách chủ tịch Hà-nội – là đi tiệc tùng, hiếu hỉ. Và, ở những nơi đó, Trần duy Hưng chỉ rình để gào lên “Hồ chủ tịch muôn năm” và “đảng Lao động muôn năm”. Thực chất công việc của Trần duy Hưng là hô khẩu hiệu ca ngợi Hồ mà thôi.
Lữ Phương có vẻ tự hào và nuối tiếc cái giai đoạn là “trí thức yêu nước” và “thứ trưởng văn hóa của chính phủ bù nhìn” do ngụy quyền Hồ chí Minh nặn ra ở trong bưng. Khổ quá, cái gọi là “trí thức yêu nước” đó là do tập đoàn mafia cộng sản phong cho theo cung cách của các cụ ta xưa nói là “xúi trẻ con ăn cứt gà sáp”, giống như kiểu “Việt kiều yêu nước” áo gấm về làng vậy. Còn cái chức thứ trưởng mới thảm hại nữa. Chẳng biết Lữ Phương có được phép biết rằng gần toàn bộ cái chính phủ bù nhìn đó đều được ra Hà-nội hết ăn rồi lại đánh bài, đánh bóng bàn, phơi nắng ở khách sạn Hoàn Kiếm, Hà-nội, tọa lạc chỗ ngã tư hai phố Phan Chu Trinh và Trần Hưng Đạo. Đủ mặt từ bộ trưởng tư pháp Trương như Tảng, bộ trưởng y tế Dương quỳnh Hoa, bộ trưởng ngoại giao Trần bửu Kiếm cũng như các vị Lâm văn Tết và bác sỹ Phùng văn Cung v.v… chứ lãnh đạo cái con khỉ khô gì đâu. Riêng luật sư Nguyễn hữu Thọ được ưu ái hơn nên được ở tòa vi-la tại phố Nguyễn Du, xưa kia là của nghệ sỹ cải lương Kim Chung, ngày ngày dạo phố hoặc lên khu Quảng Bá để nghe huấn thị. Còn vợ chồng Trịnh đình Thảo, ở một vi-la khiêm tốn hơn, gần hồ Thuyền Cương, ngày không mưa gió nắm tay nhau ra ngồi ghế đá, phơi nắng, nghe gió thổi để ngậm ngùi nhớ đến cái lúc được tự do có riêng một trang trại thuộc phần miền Nam Việt Nam, và được tự do đặt tên con đường trong trang trại là “đại lộ Hồ chí Minh”. óc cơ hội và sự mù quáng chính trị đã khiến sau tháng 4/75, cặp vợ chồng này bị đổ vỡ: bà ngả vào lòng một chú bé làm việc tại Sở Bưu điện Sài-gòn, còn ông cũng đành ôm một cháu gái khác để tranh thủ tự ban cho mình sự hưởng thụ hòng khỏa lấp cơn mơ tưởng mình là chính khứa lỗi lạc của Việt Nam! Tiếc thay, như các cụ ta xưa đã nói “thả mồi bắt bóng” và “trông gà hóa cuốc”!
Tập đoàn mafia cộng sản Hồ chí Minh là thợ lành nghề trong sản xuất bánh vẽ, vừa vĩ đại màu mè vừa hấp dẫn với những người trung hậu, thật thà cả tin. Chúng cũng là cao thủ của trò ảo thuật chữ nghĩa. Nhưng các cụ ta xưa đã dạy rằng: “ăn lắm mất ngon, nói lắm hóa nhàm” và “tinh ma chẳng qua lưới trời”. Cho nên, khi chúng từ chỗ đểu giả gọi những người tỵ nạn xâm lược của cộng sản là: “đĩ điếm”, “ngụy”, “phản cách mạng” v.v… để sau đó cho ra cụm từ “Việt kiều yêu nước” là cảnh “gay ông đập lưng ông” vậy. Bởi vì, nếu những người vì chống cộng, thấy được không thể cùng chúng đội trời chung nên phải ra đi sống đời lưu vong, nay được chính chúng thừa nhận là “yêu nước”, thì quả rõ ràng là chúng không yêu nước. Nói một cách khác, chúng là đạo quân thứ 5 của Nga-xô, chúng mang hình hài người Việt Nam chứ chúng không phải là người Việt Nam. Qua việc đảng kỳ của chúng (nền đỏ với búa liềm vàng) cũng là quốc kỳ của Nga-xô, đã bộc lộ rằng chúng là công dân búa liềm, nghĩa là một hình thức che đậy cái sự thực chúng là quốc tịch Nga-xô và vì Nga-xô mà thôi. Rút kinh nghiệm lịch sử của những kẻ xâm lược, đế quốc đỏ qua cái gọi là quốc tế cộng sản để tuyển mộ nhân lực của các nước, kết hợp chúng thành đảng cộng sản, cho nên mỗi đảng viên cộng sản là mỗi công dân Nga-xô. Và, đế quốc đỏ dùng lũ công dân Nga-xô mang hình hài Việt để giúp việc thống trị người Việt, khiến nhiều người Việt Nam, vì thiếu thông tin lại thêm thiếu xét đoán, phân tích nên ngộ nhận chúng là người Việt Nam. Cần nhớ là từ Hồ cho đến bọn Trần Phú, Hà huy Tập, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai v.v… đều có tên Nga, hoặc có bố nuôi là Nga như Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Giáp văn Cương v.v…
Khoảng 1951, nghĩa là sau khi Trung cộng làm chủ lục địa, tướng La quý Ba và đặc biệt đại tướng Trần Canh của Trung cộng qua giúp Hồ trong cái gọi là “chiến dịch biên giới 1950” và sự tái xuất của tổ chức công dân búa liềm, dưới cái tên hiền lành là đảng Lao động Việt Nam, thì tập đoàn mafia cộng sản Hồ chí Minh đã âm thầm làm đảo chính để vô hiệu hóa Quốc hội Khóa 1 với thành phần của nhiều đảng phái, cá nhân không đảng phái và không cộng sản; lật đổ Chính phủ Liên hiệp, chỉ để lại vài bộ mặt bù nhìn hữu danh vô thực như Phan kế Toại, Bùi bằng Đoàn, Nguyễn văn Huyên v.v… làm lá chắn che đậy sự đảo chính bất hợp pháp của Hồ, để từ đó ngụy quyền cộng sản ra đời cùng Hồ, lèo lái đưa Việt Nam vào quỹ đạo thuộc địa của đế quốc đỏ và dùng nhân lực, tài lực Việt Nam vào nước cờ bành trướng của đế quốc đỏ. Và, năm 1959 là năm ngụy quyền Hồ chí Minh công bố hiến pháp mới, không qua trưng cầu dân ý, vì có nhiều điều khoản trái với Hiến pháp 1946 và bộc lộ sự vi phạm quyền lợi lâu dài của nhân dân và đất nước Việt Nam, càng chứng minh cái gọi là “chính quyền Hồ chí Minh” thực chất là ngụy quyền quân phiệt, vì hầu hết các bộ trưởng của Hồ là từ lò ngụy quân cộng sản mà ra, và cái ngụy quyền quân phiệt đó lúc nào cũng có nhiệm vụ “bảo vệ Liên-xô” như Hồ luôn nhắc nhở, ngay cả di chúc trước khi chết mà Hồ vẫn một lòng một dạ đi thăm Các-Mác và Lê-nin, chứ có đả động đến Tiền nhân nào của lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam đâu.

Quá trình tội ác của Hồ chí Minh
Thực chất của “ông tiên”, “hiền triết phương đông”, “anh hùng giải phóng dân tộc”, “lãnh đạo tầm cỡ quốc tế tài ba” của Lữ Phương là gì?
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trong lúc các vua quan đương chức, các nho sỹ, nông dân v.v… đều tổ chức chống Pháp liên tục cho đến 1945-46, rồi lại tiếp tục từ đó theo các phương thức khác nhau, thì, bố của Hồ xin được làm tay sai cho Pháp và Hồ được học ở Quốc Tử Huế. Chính là từ điểm xuất phát ở Quốc Tử Huế, “cậu ấm” Hồ chí Minh đã trổ mầm của giấc mộng làm “cha mẹ dân Việt Nam” (dân chi phụ mẫu). Bố Hồ, vốn tính hung hăng, rượu chè nên khi làm tri huyện Bình Khê (Bình-định), say rượu đánh chết dân lành bị kiện. Vì mới đặt ách đô hộ nên thực dân Pháp mị dân, cách quan của bố Hồ. Và, “cậu ấm” Hồ chí Minh bị đuổi khỏi Quốc Tử Huế, ngậm ngùi ôm giấc mộng “làm cha của dân” lang thang vào phía Nam. Cả hai cha con hổ thẹn đâu dám về quê nhà ở Nghệ-an.
Với hy vọng nếu sang mẫu quốc Pháp, bày tỏ tinh thần khuyển mã, chắc sẽ được trọng dụng. Cho nên chân ướt chân ráo tới cảng Marseille, Hồ đã vội làm đơn xin được học ở trường thuộc địa để “phục vụ mẫu quốc Pháp”. Bị từ chối vì là con quan bị cách, Hồ lang thang kiếm sống. Hồ may mắn gặp được các cụ Phan văn Trường, Phan chu Trinh, Nguyễn thế Truyền v.v… giúp đỡ và giác ngộ cái thân nô lệ để tìm cách giành lại độc lập cho Việt Nam. Các cụ đối với Hồ rất chí tình, nhưng Hồ không thể theo đường lối của các cụ được. Vì như thế thì lợi cho dân cho nước nhiều, chứ Hồ chưa thỏa được tham vọng. Nhờ có các cụ dìu dắt nên Hồ mới làm quen với báo chí và chính trị. Cuối cùng, Hồ đã chọn con đường của quốc tế 3 (công cụ chiến lược của Lê-nin), vì quốc tế 3 chủ trương giúp các thuộc địa giành độc lập (thực chất là để ngả vào chủ nghĩa thực dân đỏ của Lê-nin). Chính Hồ đã viết rằng Hồ còn dốt nát về chính trị, về các học thuyết, nhưng lựa theo quốc tế 3 vì chủ trương của quốc tế 3 mở lối cho Hồ thực hiện được ước vọng “làm cha mẹ của dân Việt Nam”.
Cho nên cái gọi là “Hồ đi tìm đường cứu nước”, chính là tìm đường làm quan. Bị thực dân Pháp từ chối, nay được thực dân đỏ đón nhận nên Hồ đã mừng reo lên và tuôn nước mắt (Hồ đã dại dột bộc lộ cái kẽ hở đó).
Được thực dân đỏ huấn luyện làm gián điệp và biên chế trong Cục Phương Đông. Năm 1925, Hồ được cử về Đông-nam-á. Chính ở đây đã có bằng chứng bản chất Việt gian bán nước của Hồ. Đó là Hồ bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, lấy tiền xài sang. Sau vụ bán cụ Phan Bội Châu, từ Tàu, Hồ qua Thái-lan 1928. đây Hồ lại làm một hành động Việt gian nữa. Chẳng là lãnh tụ Nguyễn Thái Học của VNQDĐ, đang chuẩn bị khởi nghĩa đuổi thực dân Pháp, nên cử ba người sang Thái-lan móc nối mua vũ khí và họ đã tìm gặp những người Việt tại Thái-lan. Trong số đó có Hoàng văn Hoan và Nguyễn đức Quỳ. Tới Thái-lan, Hồ được Hoan và Quỳ cho biết người của VNQDĐ tìm mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa. Hồ khuyên Hoan và Quỳ đừng nên dính vào việc nguy hiểm này trước khi từ giã Thái-lan, qua Tàu trở lại. Ba người của VNQDĐ từ Thái trở về Việt Nam, qua biên giới thì bị mật thám thực dân Pháp đã đón sẵn, bắt đưa vào tù, tra tấn, hỏi cung. Biết VNQDĐ định khởi nghĩa, thực dân Pháp cảnh giác tước vũ khí binh sĩ người Việt. Đó là nguyên nhân lãnh tụ liệt sỹ vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Thái Học, đành hạ lệnh tổng khởi nghĩa dù việc chuẩn bị chưa xong.
Chẳng cần úp mở cũng đoán biết là ai là kẻ báo cho mật thám Pháp bắt ba người của VNQDĐ từ Thái-lan trở về. Việc bán cụ Phan Bội Châu và dẫn chứng nói trên – lấy từ hồi ký của Hoàng văn Hoan và của Nguyễn đức Quỳ – cho phép ta khẳng định: Hồ là kẻ mượn tay thực dân Pháp phá cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ. Vì, sự thành công của VNQDĐ sẽ là trở ngại cho việc xâm lược kiểu mới của thực dân đỏ cũng như chỗ ngồi “làm cha mẹ dân” của Hồ.
Chính vì biết dự định khởi nghĩa của VNQDĐ, nên chưa kịp nhận lệnh của quốc tế 3 Hồ đã tập hợp những tên cộng sản Việt Nam, cho ra đời cái gọi là “đảng cộng sản Việt Nam”. Sau đó lệnh của quốc tế 3 đến bắt đổi thành “đảng cộng sản Đông-dương” mà gọi tên với đúng nội dung của nó phải là: “Tổ chức công dân búa liềm, công cụ xâm lược của thực dân Đỏ”. Và, chúng vội vàng đẻ non ra vụ cướp ngày có tên là: “Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930”.
Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 đã lòi đuôi cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương” (hay tập đoàn công dân búa liềm) là công cụ của thực dân đỏ, qua khẩu hiệu đầy màu sắc Việt gian là:
“Trí, phú, địa, hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ”!!!
Nếu bốn tầng lớp “trí, phú, địa, hào” của Việt Nam mà bị tiêu diệt thì xã hội Việt Nam còn lại cái gì? Thật là dễ dàng cho thực dân đỏ xâm lược và đồng hóa toàn diện. Chiến lược của thực dân đỏ vừa thâm độc vừa tàn bạo hơn bất cứ tụi xâm lược nào trong lịch sử loài người.
Khẩu hiệu trên chỉ có thể là kim chỉ nam hành động của loại “anh hùng giải phóng dân tộc”, của “ông tiên”, của “hiền triết phương đông” qua lăng kính Lữ Phương và bè lũ đồng dạng mà thôi!
Vài năm sau Hồ làm cái việc bán Lê hồng Phong cho thực dân Pháp như đã viết ở trên (vì thù riêng). Sợ tội với quan thầy, Hồ đành lang thang bên Tàu, không dám trở lại Nga-xô. Bởi vì, Lê hồng Phong mới chính là kẻ mà tụi thực dân đỏ tin tưởng và đào tạo thành tay sai số một sau này, nếu khi Việt Nam bị nhuộm đỏ, chứ không phải là Hồ. Đánh bóng và tạo uy tín cho tay sai Lê hồng Phong, thực dân đỏ đã phong cho hắn chức ủy viên trung ương dự khuyết của quốc tế 3 và chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương.
Thời gian ở Tàu, Hồ đã trực tiếp móc nối được với Phạm văn Đồng; với Võ nguyên Giáp (con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp, tên là Marti), kẻ cũng có đơn xin được tiếp tục học để phục vụ mẫu quốc Pháp; với Hoàng văn Hoan mà Hồ gặp khi qua Thái-lan. Về sau, cả ba tên này đều được Hồ ưu đãi cho vào bộ chính trị (hậu thân của khái niệm “chủ tịch đoàn” trước kia) và Đồng làm thủ tướng ngụy quyền Hà-nội; Giáp làm đại tướng tổng tư lệnh ngụy quân; Hoan vừa phụ trách an ninh, tình báo vừa giữ ghế phó chủ tịch quốc hội do Hồ đẻ ra. Hoan còn là phái viên của Hồ bên Trung cộng, nghĩa là theo cách gọi của ngụy quyền Hà-nội: đại sứ đặc mệnh toàn quyền (bán nước)!!!
Thế chiến thứ hai xảy ra, thực dân đỏ tạm ngưng nước cờ xâm lược và cũng quên Hồ luôn. Lang thang bên Tàu như chó lạc chủ, nhưng cái bản chất lưu manh do nghề gián điệp càng thêm phát triển, Hồ làm gián điệp cho Mao, theo rõi quân Tưởng; rồi lại làm tay sai cho tướng Trương phát Khuê của Tưởng để báo cáo tình hình hoạt động của người Việt ở Tàu, phục vụ cho kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”. Bị tố giác là cộng sản – tay sai của thực dân đỏ – nên Hồ bị Trương phát Khuê cho dzô tù.
Nhờ cụ Hồ Học Lãm, một người Việt Nam yêu nước chân chính, cha đẻ của tổ chức “Việt Nam Độc lập Đồng minh”, ra đời từ 1936, có báo cáo xin chính thức hoạt động, gửi cho văn phòng trung ương quốc dân đảng của Tàu, cùng với cụ Nguyễn Hải Thần bảo lãnh, nên sau khi làm kiểm điểm phản tỉnh, Hồ được Trương phát Khuê cho ra khỏi tù. Tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh do các cụ Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v.v… tiếp tục hoạt động. Hồ xin gia nhập nhưng vẫn sợ Trương phát Khuê bắt tù lại nên láu cá xin được về hoạt động ở biên giới quốc nội. Với danh nghĩa Việt Nam Độc lập Đồng minh (tập hợp của nhiều nhóm người VIệt ở Tàu làm cách mạng), khi về biên giới, gặp đoàn thanh niên do tổ chức của cụ Nguyễn Hải Thần móc nối cho qua Tàu để huấn luyện, Hồ bịa đặt rằng hắn là đại diện của cụ Nguyễn Hải Thần, thâu nhận nhóm đó mở lớp giảng về tôn chỉ hoạt động của Việt Nam Độc lập Đồng minh (sau gọi tắt là Việt Minh) và cho về nước hoạt động. Nhóm đó gồm: Chu văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần đại Lâm v.v… (tham khảo hồi ký của bọn này sẽ rõ).
Đúng vào thời kỳ đó, ở Việt Nam, tổ chức cộng sản bị thực dân bắt gần hết bọn đầu lãnh trung ương, chỉ còn lại vài mống là Trường chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt. Sau đó thêm Phùng chí Kiên, được thực dân đỏ cho về bổ sung vào trung ương để tổ chức lực lượng vũ trang. Chức tổng bí thư bị khuyết. Đào duy Tùng, tên chánh tổng ác ôn được móc nối vào cộng sản và giữ chức bí thư tỉnh ủy cộng sản ở Hưng-yên (Bắc Việt) có sáng kiến đề nghị Trường Chinh giữ chức quyền tổng bí thư. Cái chức này của Trường Chinh chỉ do dăm tên cộng sản ở Hưng-yên bầu ra mà thôi, nghĩa là chưa đúng điều lệ. Trường Chinh sướng rên lên về cái chức bố láo đó, nhưng vẫn nơm nớp sợ rớt đài.
May thay cho cả Hồ và Trường Chinh. Thấy núp dưới danh nghĩa Việt Minh của cụ Hồ Học Lãm có kết quả tốt. Họ Hồ bèn dùng danh nghĩa phái viên Cục Phương Đông mời Trường Chinh lên biên giới Cao-bằng họp. Trường Chinh gọi cả Hoàng quốc Việt đi theo. Hồ biết Trường Chinh là tổng bí thư bố láo. Trường Chinh cũng biết Hồ là tên “thất sủng và thất nghiệp” mượn danh nghĩa cũ là phái viên Cục Phương Đông để lòe nhau. Biết tẩy của nhau nên cả hai cùng lật bài: Trường Chinh thì công nhận Hồ là phái viên Cục Phương Đông cử về. Còn Hồ thì nhân danh phái viên Cục Phương Đông, hợp pháp hóa cái chức tổng bí thư cho Trường Chinh. Khi biết Hồ có ý “định cư” hẳn ở Cao-bằng, Trường Chinh sợ Hồ có uy tín hơn Trường Chinh, sẽ tóm thâu quyền lực của Trường Chinh. Đó là lý do khi Hoàng quốc Việt bị lạc đường nên đến chỗ họp sau Trường Chinh vài ngày. Lần đầu tiên gặp Hồ, Việt chưa biết xưng hô thế nào thì Trường Chinh nhanh mồm bảo Việt gọi Hồ là “bác”. Cùng là cộng sản mà không xưng hô “đồng chí” nên Hồ láu cá hiểu ngay ý đồ của Trường Chinh là muốn Hồ giữ một khoảng cách, là cố vấn thôi, chứ đừng đi sâu vào công việc của Trường Chinh, vì qua báo cáo của Trần Phú, Hà huy Tập gửi quốc tế 3, Trường Chinh biết Hồ là kẻ đầy tham vọng, mưu mô, lạm quyền. Đó là lý do Hồ phải nằm trong hang Pắc-bó, lén lút kết thân với nhóm Chu văn Tấn, Lê quảng Ba v.v… vốn là người dân tộc thiểu số, đã được Hồ dạy khi Hồ xin với các cụ Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh về gây phong trào Việt Minh ở quốc nội, gặp bọn họ ở biên giới. Rồi để cho Trường Chinh yên lòng và cũng là tạo ra bằng cớ cụ thể, chứng tỏ Hồ, dù mạo muội hãm hại Lê hồng Phong, nhưng lòng Hồ lúc nào cũng hướng về mẫu quốc đỏ, về nguyên thủ của thực dân đỏ, về cái “quốc tịch Nga-xô” của Hồ. Cho nên Hồ để râu, nằm ở Pắc-bó dịch cuốn “lịch sử đảng cộng sản Nga, bolchévik”; dịch cuốn “tỉnh ủy bí mật” là của Nga-xô. Và Việt gian nhất là dám lấy tên Lê-nin đặt cho dòng suối chảy ngang cửa hang Pắc-bó, cũng như tạc vào đá, tượng của Các-mác!!!
Việc làm này của Hồ chứng tỏ cái gì?
Việt Nam ta có câu:
“Công Cha như núi Thái sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Thế nghĩa là Hồ coi Mác là cha và Lê-nin là mẹ của Hồ, phải luôn có hiếu với cha mẹ. Và, Hồ đã coi đảng cộng sản Nga là tổ chức của Hồ, Nga-xô là tổ quốc của Hồ cũng như hoạt động của một “tỉnh ủy Nga-xô” cũng đủ là bậc thầy của Hồ. Và, Hồ tự thú: dùng tài liệu dịch đó để huấn luyện cán bộ của đảng (tức tụi cộng sản). Nghĩa là làm sao cho toàn thể đảng viên cộng sản phải có quan niệm như Hồ về Mác, về Lê-nin, về nước Nga-xô.
Chưa cầm quyền, vậy mà Hồ đã dám tự cho phép dán nhãn Nga-xô trên một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam! Chẳng hiểu Lữ Phương có dám nhìn vào cái sự thật rành rành đó không, mà dám hạ bút đội tên “mãi quốc cầu vinh” thành “anh hùng giải phóng dân tộc” và “lãnh tụ quốc tế tài ba” v.v…
Cho dù trong bài viết của mình, Lữ Phương có đan xen một số phê bình về đường lối của Hồ, nhưng quả thực những cái nhãn mà Lữ Phương dán cho Hồ đã nâng Hồ lên địa vị mà không một anh hùng nào trong lịch sử Việt Nam sánh bằng.
Các anh Hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung còn thua cái vế “quốc tế tài ba” mà Lữ Phương dâng cho Hồ.
Sau này, khi đã tiếm được quyền thống trị, trong khi Hồ khúm núm nâng Vorosilov (chủ tịch quốc hội Nga-xô, lớn hơn Hồ hai tuổi) là cố, tức là ông nội của ông nội Hồ, thì Hồ xấc xược “bác bác, tôi tôi” với Đức Thánh Trần Hưng Đạo (chỉ riêng tuổi đời đã hơn Hồ gần 6 thế kỷ) và Tố Hữu thì, “anh anh, tôi tôi” với đại thi hào Nguyễn Du, còn với Stalin thì hắn gọi “ông” (theo cách ông nội). Kẽ hở của Hồ và Tố Hữu rành rành chứng minh rằng bọn chúng và cái tập đoàn mafia cộng sản của chúng không phải là người Việt Nam, không tự hào là người Việt Nam, nên chúng mới coi thường, hỗn láo với danh nhân Việt Nam, với ông, cha của nhân dân Việt Nam.
Còn một dẫn chứng nữa chứng minh Lữ Phương mù lòa trí tuệ. Đó là năm 1945, bác sỹ Trần Văn Lai – trong chính phủ của cụ Trần Trọng Kim – là người Việt Nam đầu tiên làm thứ trưởng Hà-nội, đã cho phá bỏ tượng toàn quyền thực dân Pháp ở Đông-dương, tên là Paulbert. Đó là điểm khởi đầu biểu tượng sự sụp đổ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Còn tập đoàn mafia cộng sản thì sao? Chúng đã đặt tên cho công viên lớn và đẹp nhất Hà-nội là “công viên Lê-nin” và dựng tượng Lê-nin – biểu tượng sự thành công của thực dân đỏ ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam (trong đó không có Lữ Phương) đã thấy điều đó nên đã đội vào đầu Lê-nin cái nón cối thủng, khoác cho tượng Lê-nin chiếc áo “đại cán” cộng sản hay mặc (mà hiện Đỗ Mười vẫn long trọng mặc kiểu áo đó) và chất vấn tập đoàn mafia cộng sản rằng:
“Lê-nin quê ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này?”…
Viết đề cương về Hồ mà Lữ Phương không biết đến sự thực thời sự này thì quả là dốt nát, vô trách nhiệm. Hoặc giả Lữ Phương cố tình bỏ qua để chạy tội cho Hồ và cái tập đoàn vong quốc cộng sản của Hồ, nhằm lừa đảo thiên hạ, nhất là bạn trẻ. Cách viết tài liệu xuyên tạc như vậy mà Lữ Phương dám “vừa đánh trống vừa ăn cướp” để kêu gọi nên có “một cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thưc về nhân vật này (tức Hồ)”! Rõ là thảm hại cho loại trí thức kiểu này, mà Mao trạch Đông từng nói là “không bằng cục phân”!!!
Xin viết tiếp về Hồ.
Lại nói cái ngày đầu tiên Hồ gặp Võ nguyên Giáp ở bên Tàu, hỏi về lý lịch của Giáp, Hồ đã thấy Giáp sẽ là con bài tẩy sau này nên khuyên Giáp theo học trường võ bị Hoàng Phố.
Khi biết Nga-xô cử Phùng chí Kiên bổ sung vào trung ương mafia cộng sản Đông-dương, đặc trách về quân sự. Hồ lo lắng lắm. Hắn vội “lệnh” cho Giáp bỏ học về nước ngay để xin làm dưới quyền Kiên (nhờ cái vốn quân sự mấy tháng ở Hoàng Phố). Vì sao Hồ ngại Kiên? Chính vì Phùng chí Kiên, trước đó giữ chức trưởng ban đối ngoại thay Hà huy Tập (vì Tập lên chức tổng bí thư), nên Kiên – qua Tập – biết về nhân cách, tham vọng tàn bạo của Hồ. Vì chính Tập đã báo cáo với quốc tế 3 rằng:
1- Hồ hay lạm quyền, nhận báo cáo của trung ương cộng sản lúc đó, tự ý găm lại; tự ý giả danh theo lệnh của quốc tế 3 ra chỉ thị cho bọn Tập để lấy le;
2- Hồ đã tự ý liên lạc với Ngô đức Trị, khi đó là một ủy viên trung ương của nhóm Tập, nhằm gây bè phái để Hồ dễ lũng đoạn, nắm sự lãnh đạo của trung ương mafia cộng sản lúc đó. Cần lưu ý rằng, Hồ tuy được Cục Phương Đông sử dụng làm phái viên liên lạc với mafia cộng sản Đông-dương, nhưng chưa bao giờ Nga-xô cho hắn cái chức trung ương ủy viên của mafia cộng sản Đông-dương. Một không may cho Hồ là khi đó Ngô đức Trị bị thực dân Pháp bắt và Trị đã khai hết và chỉ chỗ cho Pháp bắt cả Trần Phú – tổng bí thư đầu tiên của mafia cộng sản Đông-dương – vào đúng lúc báo cáo của Hồ gửi tới quốc tế 3, trong đó Hồ ca ngợi Ngô đức Trị hết lời và gợi ý nên để Trị giữ chức tổng bí thư mới xứng với “tài trí và năng lực lãnh đạo” của Trị.
Hồ rất ghét Trần Phú vì nhiều lần Phú đã báo cáo quốc tế 3 về tội ba hoa, hám quyền lực và nhất là vô nguyên tắc của Hồ. Cụ thể là bọn Phú móc nối thanh niên trong nước (phần lớn ở vùng Nghệ-Tĩnh) đưa sang Tàu để huấn luyện. Đáng ra Hồ chỉ căn cứ vào sự giới thiệu của bọn Trần Phú mà giúp đỡ những thanh niên đó, nhưng chẳng biết Hồ có âm mưu gì khi bắt những thanh niên còn khờ khạo này phải khai đủ cả quan hệ gia đình, bạn bè mà phải nói rõ tên tuổi cùng chỗ ở của những người trong mối quan hệ đó. Để rồi tự dưng phần lớn gia đình, bạn bè của những người đó đang ở quê nhà bị thực dân Pháp bắt, cũng như đa số bọn họ sau khi được huấn luyện cho về hoặt động trong nước đều bị thực dân Pháp tóm gọn cho đi tù. Và, qua báo cáo của Phú gửi quốc tế 3, Phú đã nêu nghi ngờ về Hồ! Nhất là Hồ rất thân với Lâm đức Thụ (tức Nguyễn công Viễn), một chỉ điểm của mật thám Pháp!
Hồ còn ngán Phùng chí Kiên vì Kiên được quốc tế 3 tín nhiệm hơn Hồ, hơn nữa nếu Kiên nắm giữ lực lượng vũ trang thì làm sao Hồ có thể nuôi cái mộng làm lãnh tụ tối cao của mafia đỏ được.
Cho nên khi Giáp về giúp việc cho Kiên thì chẳng rõ từ ai mà Pháp biết được ngày, giờ, địa điểm của Kiên qua lại, để tổ chức phục kích và đã bắn chết Kiên (vì Kiên chống cự và bỏ chạy). Đó là giữa năm 1944. Vì thế, Giáp, là người duy nhất có qua lớp quân sự ở Hoàng Phố, trong cái lực lượng vũ trang mafia đỏ đó, được đôn lên làm trung đội trưởng của trung đội vũ trang duy nhất này, và Chu văn Tấn, xuất thân là đội của lính dõng, giữ chức chính trị viên. Và, ngày 22-12-1944, tại Tân Trào, Hoàng quốc Việt thay mặt Trường Chinh, làm lễ trao cờ và trao nhiệm vụ cho Giáp, Chu văn Tấn và cái trung đội ấy.
Cái chết của Phùng chí Kiên rất mờ ám, nên khi Hồ tiếm được quyền lực cao nhất của của mafia đỏ, bộ máy tuyên truyền xuyên tạc của Hồ đã né tránh việc này. Vốn gốc gác là gián điệp và chỉ điểm cũng như quá trình dùng Pháp thủ tiêu những đối thủ của mình, cho nên có thể kết luận rằng việc Pháp biết đường đi nước bước của Kiên là do Hồ trực tiếp chỉ điểm hoặc qua Giáp để thủ tiêu Kiên, kẻ biết quá nhiều bỉ ổi của Hồ và là vật cản lối của Hồ.
Tất cả những báo cáo nói trên của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 vẫn còn ở kho lưu trữ của trung ương cộng sản Nga-xô (cũ).
Giờ xin tóm lược những hành động chính yếu của Hồ tiếp theo đó cho đến ngày hắn ngỏm, mà theo ngôn ngữ khuyển mã của hắn, viết trong di chúc rằng: “đi thăm các cụ Các-mác và Lê-nin”. Đến chết mà hắn vẫn một lòng một dạ ôm ấp “bố Mác” và “mẹ Lê-nin” của hắn, chứ có nói gì đến tổ tiên Việt Nam đâu!
Núp dưới danh nghĩa Việt Minh và chính phủ Liên hiệp của nhiều đảng phái không cộng sản; lợi dụng sự ngu xuẩn chính trị của chính phủ Pháp lúc đó cứ muốn duy trì chủ nghĩa thực dân, và lợi dụng tinh thần xả thân vì nước của nhân dân Việt Nam, đồng thời che đậy lốt quỷ đỏ của hắn bằng cách “giải tán đảng cộng sản Đông-dương”, Hồ đã tập trung mọi cố gắng để nắm lấy lực lượng vũ trang.
Qua biên bản các cuộc họp chính phủ (1945-46) hiện còn lưu trữ trong cái gọi là “bảo tàng Hồ chí Minh”, thì thấy, thoạt đầu Hồ núp dưới danh nghĩa Chính phủ Liên hiệp đa đảng để mở các lớp quân sự cấp tốc cho thanh niên, học sinh, sinh viên, đặt tên Trần quốc Tuấn, do Võ nguyên Giáp phụ trách. Tiếp theo là ngày 7-1-1946, để có thể chi viện hiệu quả cho cuộc chống thực dân Pháp ở Nam bộ, Hồ đề nghị và được các đảng phái đồng ý hợp nhất lực lượng quân sự, gọi là Quân đội Quốc gia. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ) làm bộ trưởng quốc phòng. Sau đó Hồ ma giáo đề nghị cụ Vũ Hồng Khanh tham gia phái đoàn ký hiệp định sơ bộ 6/3/1946 ở Đà-lạt (nghĩa là lột chức của cụ Vũ Hồng Khanh một cách khéo léo). Hồ đề nghị luật sư Phan Anh (từng là thành viên chính phủ Trần Trọng Kim) thay cụ Vũ Hồng Khanh làm bộ trưởng quốc phòng, và giáo sư Tạ quang Bửu (nhân sỹ không đảng phái) làm thứ trưởng. Quân đội hợp nhất có các cấp lãnh đạo là:
1) Chính trị vụ trưởng là ông Hoàng đạo Thúy, không đảng phái, nguyên là huynh trưởng hướng đạo sinh;
2) Y tế vụ trưởng là bác sỹ Vũ văn Cẩn, không đảng phái;
3) Chế tạo vụ trưởng là Vũ Anh, người của Việt Minh.
Nhìn vào sự phân công đó, ai mà đoán được mưu ma chước quỷ của Hồ. Thậm chí nhiều đơn vị vũ trang ở địa phương vẫn giữ tên của các tiên liệt VNQDĐ, như đại đội chủ lực ở Hải-phòng, mang tên Ký Con (liệt sỹ VNQDĐ)! Thế rồi, lấy cớ về tầm quan trọng của hội nghị Fontainebleau ở Pháp, Hồ đề nghị luật sư Phan Anh tham gia phái đoàn. Và, Võ nguyên Giáp thay thế luật sư Phan Anh, giữ ghế bộ trưởng quốc phòng của Chính phủ Liên hiệp. Trong quân đội quốc gia, Hồ phong quân hàm thiếu tướng cho Lê thiết Hùng, một người từng là sỹ quan cao cấp của quân đội quốc dân đảng Tàu, nhưng đã được Hồ bí mật kết nạp vào tổ chức mafia đỏ (khi đó Lê thiết Hùng chưa được biết rằng mafia đỏ là cộng sản; lễ kết nạp theo kiểu cắt tiết gà, ăn thề như thảo khấu lục lâm) và theo đề nghị của Võ nguyên Giáp, cho Hoàng văn Thái cái ghế tham mưu trưởng. Nói chung, Hồ đã nắm được quân đội về mặt tổ chức. Còn phía công an (tức nội vụ) cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ là một nhân sỹ yêu nước, giữ ghế bộ trưởng nội vụ, nhưng thực quyền là ở trong tay Hoàng hữu Nam (tên thật là Phan Bôi, em ruột cụ Phan Khôi), thứ trưởng nội vụ, một tên mafia đỏ khát máu nổi tiếng. Sau đó Hoàng hữu Nam bị tai nạn chết, nhưng Hồ vẫn còn những quân cờ đắc lực là Trần Hiệu, Lê Giản, Chu định Xương (là những kẻ đã tạo dựng ra vụ án “Ôn như Hầu” ở Hà-nội để bôi nhọ VNQDĐ, tiến tới loại bỏ nhẹ nhàng VNQDĐ trong Chính phủ Liên hiệp).
Sau khi yên tâm ở lực lượng quân đội đã nằm trong tay Võ nguyên Giáp và lực lượng công an nằm trong tay Trần Hiệu, Lê Giản (còn cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ là bù nhìn), cũng như đẩy được cố vấn Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại) và cụ Trần Trọng Kim (tháp tùng vua Bảo Đại) qua Trùng Khánh công cán, Hồ bấy giờ mới yên tâm lên đường qua Pháp, mà mục đích chính là để liên lạc với mẫu quốc đỏ, xin chỉ thị chiến lược. Hồ ủy quyền cho cụ Huỳnh Thúc Kháng thay Hồ, mà mục đích chính là mượn cái uy tín “yêu nước và trung thực” của cụ Huỳnh Thúc Kháng để dựa vào tài liệu của tụi Trần Hiệu, Lê Giản, Chu định Xương chế biến ra cái vụ án “Ôn như Hầu”. Thế là, cụ Huỳnh Thúc Kháng đâu ngờ đã bị rơi vào bẫy của họ Hồ để làm cái việc mà lịch sử trung thực sẽ không thể tha thứ cho cụ, vì qua vụ án “Ôn như Hầu” cụ đã giúp Hồ loại bỏ được VNQDĐ trong Chính phủ Liên hiệp (dù là vô thức).
Trước khi Trung cộng chiếm được toàn bộ lục địa Tàu, 1949, thì Hồ tỏ ra “khiêm tốn”, “dân chủ” trong hành động. Nhưng sau năm 1949, nối liên lạc được với Trung cộng để giúp đỡ thành công cái gọi là “chiến dịch biên giới 1950”, Hồ đã đưa luân phiên nhân sự của lực lượng vũ trang của Chính phủ Liên hiệp qua Trung cộng học tập – cả chính trị lẫn quân sự – Cho nên khi số đi Trung cộng học xong, được Trung cộng trang bị lại, thì khi về họ trở thành lực lượng vũ trang của Hồ, số lớn trở thành đảng viên cộng sản hoặc đoàn viên thanh niên cộng sản. Thực ra họ vào đảng cộng sản theo kiểu tập thể, ồ ạt mà như Hồ nói là “mở rộng cửa đảng (cộng sản)”, tưởng rằng như thế là toại nguyện xả thân vì nước, bởi Hồ và tập đoàn mafia đỏ của hắn dụ khị rằng vào đảng để thành lực lượng tiên phong, lực lượng xung kích v.v… đánh đuổi thực dân Pháp. Chính vì cái bong bóng “tiên phong”, “xung kích” để “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà bao thanh niên Việt Nam yêu nước bị lừa, chứ đâu có được nghe nói là “chiến đấu và bảo vệ chủ nghĩa xã hội”! Vì có ai biết chủ nghĩa xã hội là cái chó gì đâu. Hồ và đồng bọn còn khai thác triệt để tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” ấy của thanh niên trong lực lượng vũ trang lúc đó bằng cách bày ra cái trò: mỗi lần đi chiến đấu, những người lính trẻ lúc đó muốn được trao nhiệm vụ cảm tử, phải làm đơn xin vào đảng, được kết nạp tại trận địa rồi mới xông lên “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Đồng thời dùng thủ đoạn lừa đảo nói trên để nắm chặt hơn, độc quyền hơn lực lượng vũ trang thông qua tổ chức đảng cộng sản, Hồ và đồng bọn cho hình thành ở tất cả các đơn vị vũ trang, dù lớn hay nhỏ, cái gọi là “chi bộ đảng cộng sản”, “chi đoàn thanh niên cộng sản”, “đảng ủy cộng sản”. Thế là Hồ đã độc quyền nắm giữ lực lượng vũ trang. Rồi Hồ phong quân hàm, tạo ra cái gọi là “hông” hơn “chuyên”, nghĩa là tổ chức cộng sản thông qua “chính trị viên” hoặc “chính ủy”, với việc quân sự chuyên môn, thông qua cấp chỉ huy đơn vị. Tất nhiên ở mỗi đơn vị, quyền sinh sát nằm trong tay các chính trị viên hay chính ủy. Chỉ huy trưởng phải chấp hành lệnh chính trị viên, ngay cả kế hoạch hành quân chiến đấu cũng phải được chính trị viên chuẩn y. Chính trị viên và chính ủy còn là kẻ quyết định, việc đề nghị cấp trên thăng cấp hay cho đi học những binh lính trong đơn vị.
Để quản lý chặt chẽ cái tổ chức đảng cộng sản ở các đơn vị vũ trang, Hồ cho ra đời cái gọi là “tổng cục chính trị”. Tất nhiên cái tổng cục chính trị này nắm cả công tác đảng lẫn quản lý nhân sự, đề bạt cán bộ. Và, cũng tất nhiên là ngoài Hồ và chân tay của Hồ trong tổ chức mafia đỏ ra, chẳng ai có quyền được biết mọi hoạt động và tổ chức của lực lượng vũ trang, cái mà Hồ gọi là “xương sống của cơ quan chuyên chính”. Rồi Hồ thông qua cái tổng cục chính trị đó mà đẻ ra các trò ma giáo khác như cụm từ “bộ đội cụ Hồ”, “lính cụ Hồ” cũng như khẩu hiệu hành động cho lực lượng vũ trang là: “trung với đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Cái khẩu hiệu lòng thòng ấy chủ yếu là ở cụm từ trung với đảng, nghĩa là Hồ là ông chủ thực sự của lực lượng vũ trang. Và cũng từ đó, cái khởi thủy của lực lượng vũ trang được hình thành dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp nhằm bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam, thì nay nó thoái hóa thành “ngụy quân” có nhiệm vụ bảo vệ “đảng” – tức Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Và cao hơn, hay nói một cách khác là mục tiêu tối hậu của ngụy quân là “bảo vệ Liên-xô” như Hồ ra lệnh bằng miệng cũng như bằng các nghị quyết của trung ương mafia đỏ của Hồ. Vậy, Việt Nam cách Nga vài ngàn dặm, tại sao lại bảo vệ cho Nga-xô, và bảo vệ như thế nào? Xin thưa rằng, trước mắt là phải đánh thắng thực dân Pháp để Việt Nam trên thực tế là thuộc địa của thực dân đỏ, được cai trị thông qua Hồ, tên toàn quyền kiểu mới của thực dân đỏ, dựa vào tổ chức mafia đỏ mà thực chất đó là những tên mang quốc tịch Nga, nghĩa là Nga gốc Việt. Tiếp đến là làm “lính xung kích” trong chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ và ngấm ngầm bao vây Trung cộng, một nguy cơ tranh quyền lãnh đạo thực dân đỏ của Nga-xô.
Kể từ đó, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp không phải để đạt mục tiêu trước đây do Chính phủ Liên hiệp đề ra là giải phóng đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Mà nội dung mục tiêu của cuộc chiến đó chỉ là mượn danh “giải phóng đất nước”, “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam” để thực hiện chiến lược toàn cầu của Nga-xô, tức thực dân đỏ hay đế quốc đỏ cũng vậy.
nông thôn cũng thế, Hồ cho “mở cửa đảng” kết nạp đảng viên từ nông dân. Những người này cũng chẳng hề biết gì về cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản”. Vì ngay trong lực lượng vũ trang, tự bản thân đã là một tổ chức phải có kỷ luật chặt chẽ, hai là nơi tập trung chủ lực nhân sự của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh, thế mà cũng chưa được học và cũng chưa đủ người hiểu về chủ nghĩa cộng sản để làm công tác giảng dạy. Bản thân cái lũ gọi là “chính trị viên”, “chính ủy” còn mù tịt. Thục chất chúng chỉ là bọn ít học hoặc chưa bao giờ được học, dễ dàng nuốt những khẩu hiệu mị dân, những kích động thú tính v.v… của họ Hồ, khiến bọn họ trở thành u mê hoàn toàn và cuồng tín triệt để. Đó thực thụ là những con chó giữ nhà, trung thành với Hồ, cũng có nghĩa là trung thành với mẫu quốc đỏ của chúng, vì chúng đã nhập quốc tịch Nga-xô.
Câu chuyện về lễ tuyên thệ nhập đảng mafia đỏ khi ấy thật là tức cười. Nhiều đảng viên nông dân kiểu ấy đã thề, trước bàn thờ có lá cờ đỏ, búa liềm vàng (tức quốc kỳ Nga-xô), được gọi là “đảng kỳ” của mafia đỏ; có ảnh Mác. Ăng-ghen, Lê-nin và Stalin rằng: “Thưa hai ông tây rậm râu (tức Mác và Ăng-ghen); một ông sâu mắt (tức Lê-nin); một ông râu chổi mép (tức Stalin), tôi xin thề”. Việc tưởng như đùa mà là thực trăm phần trăm, có cả ngàn người biết, kể cả Hồ, Trường Chinh, Võ nguyên Giáp, Nguyễn chí Thanh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt. Chỉ có điều là khi nghe báo cáo về những chuyện như thế, bọn chúng còn cảm động rằng đảng viên mafia đỏ kiểu ấy là chân thành từ tim ruột.


Bài 02
Hồ Chí Minh-Con yêu râu xanh 
Xin nói tiếp về âm mưu trong “cải cách ruộng đất” của họ Hồ.
Giờ ta thử hỏi: Tại sao Hồ không dựa vào “chính quyền” xã và tổ chức “đảng” của Hồ ở xã, mà lại dựa vào cái gọi là “rễ”? Nên nhớ bọn gọi là “rễ” này gần như không tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu có thì cũng chỉ làm những thứ vụn vặt. Bọn chúng đều không có học, có đứa tuổi chỉ độ 15, 16 trở lên, không nghề nghiệp rõ ràng. Hầu như toàn bộ bọn chúng là “lưu manh” ở làng xã. Chúng hoàn toàn bị chi phối bởi cái dạ dày, nghĩa là có ăn thì bảo giết bố mẹ của chúng, chúng cũng làm. Thực ra bọn gọi là “rễ” chính là thành phần “vô sản lưu manh” ở nông thôn Việt Nam. Đối với chúng, cái gọi là đạo đức hay lý tưởng là những món hàng cực kỳ xa xỉ.
Xin trả lời:
1- Hồ không thể dựa vào chính quyền ở xã, vì cái chính quyền ấy là một tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng. Quyền lợi của nhân sự trong cái chính quyền ấy gắn liền với quyền lợi của nhân dân toàn xã. Đấy là động lực khiến họ tham gia có hiệu quả công cuộc kháng chiến chống Pháp. Cái chính quyền ở xã thời đó cũng là tập hợp những cá nhân và đảng phái không cộng sản (như Dân chủ, thậm chí cả VNQDĐ) để thực hiện chủ trương chống Pháp, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp đa đảng do Quốc hội Khóa 1 bầu ra.
Xin lưu ý rằng ngay khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ đã ma giáo cho khai tử Mặt trận Việt Minh và thay thế bằng cái gọi là Mặt trận Liên Việt. Đó là âm mưu của Hồ muốn xóa bỏ công khai sáng tổ chức mặt trận của các cụ Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v.v… Mặt trận Liên Việt là do Hồ sáng lập, là công cụ quá độ để Hồ tiến tới cái gọi là chuyên chính vô sản – mà nội dung thực sự là thiết lập sự cai trị trọn vẹn của bộ máy cầm quyền thực dân đỏ. Từ Việt Minh tiến tới Liên Việt là bước đầu Hồ khéo léo loại bỏ các đảng VNQDĐ và Việt Cách (của cụ Nguyễn Hải Thần). Đó là hai đối thủ nặng ký nhất mà Hồ ngán, chỉ còn lại hai đảng Dân chủ và Xã hội là hai tổ chức mà Hồ đã cấy được nội gián vào, thí dụ: như Cù huy Cận, Trần đăng Khoa ở đảng Dân chủ; Hoàng minh Giám, Đỗ xuân Sảng ở đảng Xã hội.
Cho nên, nếu dựa vào chính quyền xã thì làm sao Hồ có thể làm sai luật cải cách ruộng đất, biến nó thành biện pháp đảo chính không lộ mặt cái Chính phủ Liên hiệp đa đảng được.
2- Hồ cũng không thể dựa vào tổ chức của cái gọi là “đảng Lao động” (tức cộng sản) được, vì:
a) phần lớn chịu ảnh hưởng của nhóm Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt;
b) nhưng quan trọng nhất là đa số đảng viên thời đó của cái gọi là đảng Lao động, là do bị Hồ lừa bằng cái bánh vẽ: vào tổ chức để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do, hạnh phúc chứ không phải vì chủ nghĩa cộng sản (tức thực dân đỏ). Họ gia nhập lúc Hồ “mở rộng cửa đảng”. Tóm lại, họ là những đảng viên bị Hồ lừa (chứ không phải là loại “cộng sản theo con đường của ông (tức Hồ)” như Lữ Phương viết). Họ là những người yêu nước thực sự, cho nên tất nhiên họ cũng là đối tượng để tên Việt gian chính hiệu Hồ chí Minh thủ tiêu, ngõ hầu mới có thể áp đặt chủ nghĩa thực dân đỏ.
Đó là lý do Hồ chí Minh phải dựa vào “rễ” để làm cái mà Hồ khoái chí gọi là: “Cuộc cách mạng long trời lở đất ở nông thôn Việt Nam.” Đúng vậy, vì trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ có kẻ nào, lực lượng nào – kể cả phong kiến phương Bắc lẫn thực dân Pháp – làm được cái việc là gài mồi “yêu nước” để cho vào bẫy gần như trọn vẹn những người yêu nước mà tiêu diệt về thể xác, về tinh thần hoăc cả hai.
Thế là, cán bộ đội cải cách cùng với “rễ” nắm trọn mọi quyền hành trong xã. Bọn chúng có trách nhiệm chọn ra 5% dân số bị qui tội danh là: “địa chủ, cường hào gian ác có nợ máu, phản động đội lốt tôn giáo và các đảng phái phản động trèo cao, nằm sâu trong chính quyền và đảng (tức đảng Lao động).” Với cái tội danh mơ hồ đó, bất cứ ai cũng có thể bị gán tội được cả. Vì thế mà hầu như ở xã nào các chủ tịch, phó chủ tịch xã, trưởng công an xã, bí thư và chi ủy viên (đảng Lao động), các đảng viên dân chủ, những người xưa có cảm tình với VNQDĐ, có ảnh liệt sĩ Nguyễn Thái Học; có biết chút tiếng Pháp; có quan hệ họ hàng ở tỉnh, thành; các linh mục công giáo; các sư, sãi có uy tín trong dân v.v… đều bị kết tội.
Các tòa án cải cách ruộng đất được gọi là “tòa án nhân dân”. Chánh án tất nhiên là “rễ”, đã vô học, lưu manh, nhiều khi mới 15, 16 tuổi, vậy mà dám tuyên án tử hình tại chỗ, tịch thu toàn bộ tài sản, bỏ tù hoặc quản chế cái chỉ tiêu 5% của Hồ đề ra.
Qua cải cách ruộng đất của Hồ, bộ mặt nông thôn Việt Nam có diện mạo mới rất đặc biệt mà chưa từng nhen nhúm, hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam ta. Đó là:
1- Một bộ máy cai trị mà những chức vụ chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký ủy ban v.v…; trưởng và phó công an xã; xã đội trưởng; chủ tịch nông hội, chủ tịch mặt trận; chủ tịch phụ nữ v.v… đều là “đảng viên Lao động” (tức “cộng sản” đã qua thanh lọc hoặc mới được kết nạp);
2- Một tổ chức hoàn toàn mới của cái gọi là “đảng Lao động (tức cộng sản)”. Nghĩa là hoàn toàn không còn những người tưởng rằng vào đảng “để được góp phần chống thực dân Pháp”. Trong “đảng” là loại xuất thân từ vô sản lưu manh, trộm cắp, lười lao động, không biết chuyên môn gì – kể cả nghề nông. Chúng được lôi vào “đảng” vì có công tố láo, giết người cùng làng; vì được hứa chia quả thực, cho vị trí cầm quyền. Chúng một lòng một dạ đi theo Hồ, nguyện là người học trò trung thành của Hồ và phấn đấu vì sự nghiệp của Hồ. Chỉ có vậy thôi.
3- Bước một trong kế hoạch làm cho nông thôn Việt Nam (cả nhân lực, tài lực) trở thành tài sản của Hồ (nghĩa là của thực dân đỏ mà Hồ là người đại diện). Gọi là bước một vì tài sản ở nông thôn được chia cho “rễ”, tạm thời quản lý. Phải chờ đến bước hai, tức là hợp tác hóa, thì Hồ mới tước lại tài sản từ trong tay các “rễ”. Chính thời gian này mà ra đời các cụm từ: “ruộng đất cụ Hồ”; “gạo cụ Hồ”; “dân cụ Hồ”; thậm chí cả “hạt muối cụ Hồ” v.v…
4- Chính quyền xã – cái tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng – hoàn toàn bị tiêu diệt. Không những thế, còn bị Hồ bôi nhọ. Từ chỗ là một chính quyền yêu nước, có công lãnh đạo nhân dân địa phương chống Pháp có hiệu quả, nay bị gọi là phản động, là phòng nhì của Pháp, là nằm vùng để phá cách mạng.
5- Các nhân sỹ, các nhà hoạt động tôn giáo, các đảng phái không cộng sản bị hạ nhục, bị vô hiệu hóa, bị khủng bố. Và, kể từ đó chỉ còn những kẻ chỉ điểm của Hồ trong các đảng phái không cộng sản, các hoạt động tôn giáo. Nhưng cũng chỉ được hoạt động theo kiểu làm kiểng “dân chủ” như cái chính phủ mà Lữ Phương đã là thành viên chỉ khi còn ở trong bưng mà thôi vậy.
Chính quyền xã (tế bào của Chính phủ Liên hiệp đa đảng) và tổ chức “đảng Lao động (cộng sản) ở xã bị sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ ở cấp huyện và tỉnh. Thế là, bộ mặt chính phủ vẫn mang diện mạo của “liên hiệp đa đảng” nhưng thực tế nó là một kiểu “hồn Trương Ba da hàng thịt”. Nghĩa là, về hình thức vẫn là “liên hiệp”, nhưng nội dung của nó là “đảng trị độc tài” của Hồ và cái “tập đoàn công dân búa liềm” của hắn. Cuộc đảo chính của Hồ đã thành công trọn vẹn. Máu đổ cũng nhiều, người chết và bị thanh trừng cũng nhiều. Quá trình đảo chính và củng cố ngụy quyền cộng sản đã không chỉ tác hại trực tiếp đến hàng triệu sinh mạng mà nó ảnh hưởng đến toàn bộ nhân dân Việt Nam trong mọi mặt đời sống văn hóa và sinh hoạt chính trị của xã hội Việt Nam. Cái kinh tởm nhất là toàn xã hội – kể cả tụi thống trị – trở thành lũ nói láo, nói điêu, sống vô đạo nghĩa – nói và nghĩ hoàn toàn ngược với nhau. Tỷ dụ: Đói thì nói là no; ghét nói là yêu; bị đàn áp thì nói là được tự do v.v… Cả xã hội chỉ phát triển cơ bắp, bộ óc teo lại chỉ dùng để “ăn, ngủ, đụ, ị” và hô khẩu hiệu mà thôi. Tất cả mọi suy nghĩ là độc quyền của Hồ chí Minh và đầu lãnh mafia đỏ.
Có thể người dân Việt Nam (nhất là cái gọi là “trí thức”) cũng như quốc tế ngu thật, hoặc mơ hồ vì chỉ thấy nguyên nhân máu chảy, người chết và tù đày là từ những cái gọi là “cải cách ruộng đất”, “rèn cán chỉnh quân”, “chỉnh huấn chính trị”, “ôn nghèo nhớ khổ”, “cách mạng văn hóa và tư tưởng”, , “chấn chỉnh tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” nghĩa là chính sách quá tả mà ra, vì thế họ không nhận ra rằng Hồ chí Minh dùng những chính sách nói trên làm biện pháp đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vô hiệu hóa Quốc hội khóa 1.
Cho nên, phải thấy rằng, sau cải cách ruộng đất (ở miền Bắc Việt Nam) thì miền Bắc Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân đỏ Nga-xô. Vì thế, Quốc hội khóa 2 – với thành phần quét rác, mổ heo, loại mù chữ, ngụy quân, công dân búa liềm, sư sãi mộc tồn, linh mục “đơ-mi ca-ri, đơ-mi rô-ti” và v.v… cùng với cái gọi là “hiến pháp 59” chỉ là những lớp son dân chủ giả hiệu trên các bộ mặt hề của chủ nghĩa thực dân đỏ.
Xin được đưa một thí dụ cụ thể chứng minh thấy rõ hơn những điều vừa nêu. Lấy tỉnh Phú-thọ (Bắc Việt Nam) làm một điển hình:
Năm 1945, sau khi quân Nhật phát xít làm đảo chính thực dân Pháp, trong lúc chính phủ của cụ Trần Trọng Kim chưa kịp vươn tới đó thì tuần phủ của tỉnh là Cung đình Vận bỏ trốn. Nhân dân vì nạn đói đua nhau đi phá kho thóc của thực dân Pháp (nghĩa là tự phát làm cách mạng), rồi bầu viên tham tá tòa công sứ Phú-thọ, tên là Nguyễn hữu Chỉnh, làm “quyền tỉnh trưởng”. Tận cuối 1945, vài tên cộng sản núp dưới danh nghĩa Việt Minh, móc nối với Đội Phiên. Khi đó Phiên đang làm quản lý đồn điền cho ông Đốc Lương (có phòng mạch ở Nông-pênh, Cam-bốt) nên có nhiều tá điền. Thế là Phiên được “phong” làm chủ nhiệm tổng bộ Việt Minh tỉnh Phú-thọ. Phiên đem một số tá điền cầm giáo, mác ra cùng chia quyền với ông Nguyễn hữu Chỉnh. Lúc đó Nguyễn văn Nguyên (còn gọi là giáo Nguyên), quê ở Xuân-lũng, phủ Lâm-thao (Phú-thọ), lấy vợ và định cư ở Chí-chủ. Hắn là đảng viên cộng sản do Trường Chinh kết nạp. Sau khi Chính phủ Liên hiệp đa đảng ra đời, theo đề nghị của Hồ là hợp nhất lực lượng vũ trang của các đảng phái trong Chính phủ Liên hiệp ngày 7-1-1946. Hồ đã lưu manh cho họp mặt ăn thề “hợp nhất” lực lượng vũ trang của VNQDĐ ở Yên-bái (Bắc Việt Nam) buổi chiều thì buổi tối cho đánh úp quân của VNQDĐ khiến tư lệnh Nguyễn văn Vĩnh phải tự tử. Một số trốn thoát chạy lên Lao-cai với tư lệnh Triệu việt Hưng. Còn lớp sỹ quan lục quân của VNQDĐ, hầu hết là sinh viên đại học Hà-nội, vì lòng yêu nước bỏ học để học quân sự ở nơi anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp giết, được tụi cộng sản làm lễ tiễn về Hà-nội để tiếp tục học ở đại học. Nhưng thực tế chúng đã báo cho Nguyễn văn Nguyên đón bắt hầu hết ở ga Chí-chủ. Nguyên cho trói hai người làm một rồi đưa ra ghềnh Bà Triệu, đâm vài nhát và đẩy xuống chỗ xoáy nước của ghềnh. Trong số thoát nạn có bác sỹ Nguyễn văn Tiếp, sau 1954 di cư vào Nam và từng giữ chức giám đốc bệnh viện Chợ Quán.
Với thành tích giết “người yêu nước” như thế, Nguyễn văn Nguyên được Trường Chinh chỉ định làm “bí thư tỉnh ủy cộng sản” của tỉnh Phú-thọ. Bấy giờ Nguyên mới kết nạp đội Phiên. Đầu năm 1947, vợ đội Phiên cũng được lôi lên Vĩnh-chân (huyện Ấm-thượng, Phú-thọ), dù mù chữ lại vừa già móm và toét mắt, cũng giữ chức chủ tịch phụ nữ Liên khu X, có bà Phan thị An, nguyên hiệu trưởng trường nữ học Hoài Đức (Hà-nội), giúp việc.
Qua cải cách ruộng đất ở tỉnh Phú-thọ, Nguyễn văn Nguyên bị khép tội VNQDĐ và bị bắn chết. Chưa đầy 5 tiếng đồng hồ sau thì có ngựa hỏa tốc đem lệnh của Hồ sửa sai cho Nguyễn văn Nguyên, được tuyên dương là liệt sỹ. Vợ chồng đội Phiên cũng bị còng tay vào tù về tội “liên quan với địa chủ” (tức làm quản lý đồn điền cho ông Đốc Lương). Đội Phiên cắn lưỡi tự tử chết, còn vợ bị đem về bắn chết ở sân đồn điền của ông Đốc Lương (Cẩm-khê, Phú-thọ). Chủ tịch tỉnh là nguyên tham tá tòa sứ Phú-thọ, Nguyễn hữu Chỉnh bị cách chức, khoảng 1957 cho đi dạy học ở trường kinh tế – tài chính (Hà-nội). Trước đó, tuần phủ Cung đình Vận cũng bị bắt và bắn chết.
Quyền hành toàn tỉnh Phú-thọ, sau ngón võ của Hồ, đều nằm trong tay bí thư tỉnh ủy mới của “đảng Lao động” là Vũ Song, do đích thân Hồ chỉ định. Trước đó Song là người được Hồ trực tiếp lựa chọn và giao cho xây dựng “đoàn thanh niên xung phong” (một mỹ tự gắn cho nam nữ thanh niên nô lệ khổ sai).
Thế là Hồ đã chặt chân tay của Trường Chinh ở Phú-thọ qua cái gọi là “cải cách ruộng đất”, cũng như cày nát nhân sự làng Xuân-lũng (phủ Lâm-thao, Phú-thọ), đã từng là cơ sở quan trọng của anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thái Học. Sau khởi nghĩa Yên-bái của VNQDĐ, làng Xuân-lũng đã từng bị thực dân Pháp cho máy bay “bà già” bắn phá bỏ bom. Hồ đánh tan nát Xuân-lũng còn hơn Pháp bắn và thả bom rất nhiều, nhằm tiêu diệt tinh thần yêu nước thực sự của người Việt Nam (đó là tinh thần Nguyễn Thái Học).
Trường Chinh rất đau trong vụ Nguyễn văn Nguyên bị Hồ cho giết chết. Hắn lợi dụng cái tuyên dương “vuốt đuôi” là liệt sỹ mà Hồ ban cho Nguyên để đưa con trai Nguyên đi Nga-xô học, rồi khi nắm chức Chủ nhiệm ủy ban khoa học của ngụy quyền Hà-nội, hắn đã đưa thằng con đó của Nguyên vào giữ ghế thư ký ủy ban. Con của tên Việt gian, giết người yêu nước, Nguyễn văn Nguyên đó chính là “giáo sư tiến sỹ” Nguyễn văn Đạo, giám đốc trường đại học quốc gia hiện nay. Đạo là người đọc diễn văn ngày cựu tổng thồng Bill Clinton của Mỹ, đến nói chuyện ở trường này, và Đạo bị một số người trong nước Việt Nam chửi là “vô giáo dục, bất lịch sự”. Chó tất nhiên đẻ ra chó, làm sao đẻ ra cọp được!
Làm “cải cách ruộng đất” là âm mưu thâm độc và quan trọng nhất để Hồ đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, âm thầm biến cuộc chiến tranh chính nghĩa của Chính phủ Liên hiệp đa đảng chống thực dân Pháp thành chiến tranh bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ. Chính vì thế mà bao người đành phải đau lòng rời bỏ kháng chiến để vào vùng Pháp tạm chiếm. Hầu hết còn mơ hồ không lý giải được tình hình lúc đó, lại thêm thiếu tài liệu về con người của Hồ chí Minh cũng như những thực tế tội ác của Hồ và tập đoàn mafia đỏ của hắn, cho nên chia làm hai bộ phận:
1- Một số trùm chăn, mơ mơ hồ hồ, làm cái loa rỉ tai tuyên truyền có lợi cho ngụy quyền Hồ chí Minh.
2- Số khác lợi dụng Pháp để công khai chống ngụy quân, ngụy quyền Hồ chí Minh, nhưng cũng chưa đủ thông tin để hiểu sâu sắc về tập đoàn Hồ chí Minh và cái chủ nghĩa “lá diêu bông” cộng sản; và cũng không có khả năng tổng hợp tội ác của chúng cũng như hoàn toàn thiếu phương tiện để đấu tranh với bọn chúng trên bình diện tuyên truyền thông tin. Trong khi đó, ngụy quyền Hồ chí Minh vẫn núp trong cái lốt Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vẫn nắm ngọn cờ “chiến tranh giải phóng dân tộc” của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lại được mẫu quốc Nga-xô cùng đồng bọn cộng sản ở khắp thế giới đánh bóng, ủng hộ. Điều đáng buồn là có nhiều “trí thức tháp ngà”, nhiều nhà hoạt động xã hội quốc tế có tên tuổi, y như người ngắm trăng bằng mắt để tưởng tượng ra câu chuyện “chị Hằng” và “chú Cuội ngồi gốc cây đa”, ra công tô vẽ cho con quạ đen ngụy quyền Hồ chí Minh thành chim phượng, chim trĩ!!! Chính vì thế mà cuộc đấu tranh của những người đã cảm nhận được Hồ và cái tập đoàn công dân búa liềm của hắn là nguy cơ của dân tộc và đất nước Việt Nam cứ phải ở thế hạ phong.
Với dã tâm lưu manh chính trị đó, ngay từ đầu 1948, Hồ đã đích thân dùng bút danh Trần dân Tiên để tự đánh bóng bản thân với toàn những chuyện phịa. Đó cũng là cái khung, cái mẫu mực mà Hồ vạch ra cho các loại bút nô sau này, tạo thành “một nguồn cảm hứng vô tận” để hình thành những bài tụng ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa, như Lữ Phương viết.
Tất cả những tên nô lệ thổi kèn nâng bi họ Hồ, dù xuất thân rất khác nhau, đều được Hồ ban cho một chỗ đứng cao ráo trong bậc thang mafia đỏ. Tố Hữu, một tên mà đã có nhận xét về hắn là “mắt khô miệng ướt”, đã vọt lên tới cái ghế ủy viên chính trị bộ đảng Việt gian; Diệp minh Châu được lôi từ đồng bằng Cửu-long, chẳng qua bầu bán, nhảy thẳng ra Việt-Bắc dự đại hội 2, rồi được cùng ăn ở với Hồ để vẽ Hồ. Một năm sau, Hồ cho Diệp minh Châu qua Ba-lan học nghề nặn tượng để chuyên nặn và tạc tượng Hồ. Tên phó máy phố phủ là Đinh đăng Định cũng được Hồ cho ở cạnh để chụp ảnh Hồ trong suốt những ngày ở Việt-Bắc và vài năm sau 1954, được Hồ cho cái ghế “chủ tịch hội nhiếp ảnh”. Tất cả các loại khác từ Nguyễn đỗ Cung đến Mai văn Hiến; từ Hoài Thanh đến Bảo định Giang; cặp bài trùng Cù huy Cận – Xuân Diệu; rồi Nguyễn đình Thi, Lưu hữu Phước, Phạm Tuyên, Đỗ Nhuận; rồi Huyền Kiêu, Hoàng trung Thông v.v… Tóm lại cả một hiệp hội gồm những văn nghệ sỹ, trí thức “không bằng cục cứt” đua nhau ca ngợi Hồ bằng mọi loại hình văn học nghệ thuật và có cả một cái gọi là “ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài” với những Phạm ngọc Thuần (anh ruột nội gián Phạm ngọc Thảo), bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Vũ Cận v.v… làm công việc dịch thuật những “tụng ca” đó, có sự tiếp tay của nhóm Việt gian hải ở ngoại là Huỳnh trung Đồng, bác sỹ Nguyễn ngọc Hà v.v… Hồ còn được mấy anh chị làm báo của Tây cộng sản và Tây xã hội làm cái việc “vẽ rắn thêm chân”.
Sự bốc thơm họ Hồ của cả một hệ thống văn nô cung đình, có tầm vóc lớn lao, mà lịch sử các triều đại ở Việt Nam chưa bao giờ có thể hình dung được. Cộng thêm những tên cầm bút người nước ngoài vừa ngu vừa dốt, vừa vô trách nhiệm, đã đổi trắng thay đen sự thực lịch sử, khiến con dê cụ Hồ chí Minh biến thành “ông tiên” của Lữ Phương, tên Việt gian số một trong lịch sử Việt Nam biến thành “anh hùng giải phóng dân tộc”; tên gián điệp quốc tế chuyên nghiệp thành “lãnh đạo cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba”; tên đạo văn thành “hiền triết phương đông”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét